Kinh Phổ Môn thực ra là Phẩm phổ môn trong kinh Pháp Hoa. Đây là phần kinh văn đức Thế Tôn thuyết giảng về uy đức không thể nghĩ bàn của danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Cổ kim đến nay người trì tụng Kinh Phổ môn này được cảm ứng thoát khổ không thể kể xiết, nhiệm mầu vô cùng.
Bất kỳ ai, dù là Phật tử hay không phải Phật tử, đọc xong kinh Phổ Môn này, biết về uy lực của danh hiệu Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát rồi. Nếu thường trì niệm thánh hiệu thì không cầu nào chẳng được, không nạn nào đến được nơi thân. Bồ Tát quán xét âm thanh, mong cầu của chúng sanh, trong sát na hiện thân ứng cứu: Ý nghĩa của Tầm thanh cứu khổ là như thế đó!
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam tóa ha. (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
(Quỳ xuống Quán nguyện niệm hương)
Kính Lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi. (C)
Kính Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nhìn sâu vào lòng sự vật và vào lòng người. Chúng con xin tập nhìn với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập nhìn với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nhìn mà không phán xét, không phản ứng. Chúng con nguyện tập nhìn sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền não, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới. (C)
NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Chí tu học vững bền,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.
Ngưỡng bạch chư Phật ba đời trong mười phương thế giới:
Hôm nay, ngày… tháng… năm. Có chư tín chủ……… thành tâm sắm sửa hương đăng hoa quả làm lễ kỳ an. Cầu nguyện hồng ân Tam bảo, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đại bi Linh Cảm ứng Quán Thế Âm Bồ tát xót thương gia hộ, chư Phật tử………………. pháp danh………………., … tuổi.
Và toàn thể gia quyến: bệnh tật thuyên giảm, tai nạn tiêu trừ, phước huệ trang nghiêm, thân tâm an lạc, vạn sự kiết tường, tùy tâm mãn nguyện.
Nguyện cùng tất cả pháp giới chúng sanh: tinh tấn tu hành, sớm thành Phật quả. (Nếu có cầu siêu …, thì cầu nguyện thêm)
Hương xông đỉnh báu,
Giới định tuệ hương,
Giải thoát, giải thoát tri kiến quý khôn lường,
Ngào ngạt khắp muôn phương,
Thanh tịnh tâm hương,
Đệ tử nguyện cúng dường.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
KỆ PHÁP VƯƠNG
Đấng Pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật, chúng sanh, tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 xá)
ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. ¦ (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ tát, Linh sơn Hội thượng Phật Bồ tát. ¦ (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát.¦¦ ¦ (1 lạy)
TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương sạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diệu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bác ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án. tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì. hế rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng. a thể dựng, tát bà tát đa na ma bà gìa. ma phạt đạt đậu, đát thiệt tha. Án! a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. cu lô cu lô kiết mông. độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, Bồ đà dạ bồ đà dạ, Di đế rị dạ, na ra cẩn trì. địa rị sắc ni na, Ba dạ ma na. ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, Ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo. (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Bài Khen Ngợi Kinh
Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn
Rộng chứa đựng vô biên nghĩa mầu
Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần
Trong miệng chất đề hồ nhỏ mát
Bên răng ngọc trắng tuôn xá lợi
Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang
Dầu cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng.
Nam mô Pháp hoa Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
PHẬT NÓI KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
(Dịch chữ Hán: Pháp sư Tam tạng Cưu Ma La Thập nước Dao Tần, dịch đời Đông Tấn.
Dịch chữ Việt: Hòa thượng Thích Trí Tịnh.)
Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”
Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỷ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn quỷ La Sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy được thoát khỏi.
*
Nếu quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỷ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này”.
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”, vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế.
Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si.
*
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức uy thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sinh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sinh con trai phúc đức trí tuệ. Giả sử muốn cầu con gái, bèn sinh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phúc đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sinh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phúc đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa bồ tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân đó có nhiều chăng?”
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều”.
Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phúc của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích như thế.”
*
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào?”
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên Giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm Vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Ðế Thích được độ thoát, liền hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Ðại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Ðại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên Ðại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu Vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng Giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
*
Người đáng dùng thân Cư Sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tròi, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
*
Quán Thế Âm Ðại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị “Thí Vô Úy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.
Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân và phi nhân v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó”.
Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, nhân, phi nhân v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Ða Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà.
Lúc đó, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
*
Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật Tử nhân duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?
Ðấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi
Giả sử sinh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỷ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm được
Hoặc ở chót Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhật treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông
Hoặc gặp oán tặc vây
Ðều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Ðều liền sinh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã được giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại nơi bổn nhân
Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc các loài quỷ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
*
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả
Chúng sinh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Ðầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ:
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh
Sinh, già, bịnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết
Chân quán thanh tịnh quán
Trí tuệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Tuệ nhật phá các tối
*
Hay phục tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian
Lòng bi vang như sấm
Ý Tứ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lộ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy
Ðủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phúc lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ
*
Bấy giờ, ngài Trì Ðịa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít”.
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Chơn ngôn Kinh Diệu Pháp Liên hoa, phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ môn:
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần) ¦
CHƠN NGÔN SÁU CHỮ ĐẠI MINH
Án, ma ni bát di hồng. (108 lần) ¦
KỆ KHEN PHỔ MÔN
Phổ môn hiện rõ ở Ta Bà,
Chúng sanh kêu cứu khắp gần xa,
Từ bi thuyết pháp tùy loài hiện,
Tám nạn ba tai chẳng đến nhà.
MƯỜI HAI NGUYỆN LỚN
1.- Nam mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quán Âm Như lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. ¦ (1 lạy)
2.- Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như lai, thường cư Nam Hải nguyện. ¦ (1 lạy)
3.- Nam mô trụ Ta Bà, U minh giới, Quán Âm Như lai, tầm thinh cứu khổ nguyện. ¦ (1 lạy)
4.- Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. ¦ (1 lạy)
5.- Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như lai, cam lồ sái tâm nguyện. ¦ (1 lạy)
6.- Nam mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như lai, thường hành bình đẳng nguyện. ¦ (1 lạy)
7.- Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như lai, thệ diệt tam đồ nguyện. ¦ (1 lạy)
8.- Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như lai, già tỏa giải thoát nguyện. ¦ (1 lạy)
9.- Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như lai, độ tận chúng sanh nguyện. ¦ (1 lạy)
10.- Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện. ¦ (1 lạy)
11.- Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như lai, Di Đà thọ ký nguyện. ¦ ¦ (1 lạy)
12.- Nam mô đoan nghiêm thân vô tỷ tái, Quán Âm Như lai, quả tu thập nhị nguyện. ¦¦ ¦ (1 lạy)
KỆ KHEN QUAN ÂM
Quan Âm Bồ tát hiệu Viên Thông,
Mười hai nguyện lớn rộng mênh mông,
Cứu giúp mọi người trong biển khổ,
Từ bi độ chúng khắp non sông.
Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ tát Ma ha tát. (3 lần) ¦ ¦
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Bồ tát Quán Tự tại, khi thực hành sâu xa pháp Bát nhã Ba la mật đa, thì Ngài soi thấy Năm uẩn đều Không, nên qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc; Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này ông Xá Lợi Tử ! “Tướng Không” của mọi pháp : Không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong Chơn không – Không có Sắc, không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Không có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý; – Không có Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; Không có Nhãn giới, cho đến không có Ý thức giới; Không có Vô minh, cũng không có cái hết Vô Minh; Cho đến không có Già Chết, cũng không có cái hết Già Chết; – Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; – Không có Trí huệ, cũng không có chứng đắc.
Vì không có chứng đắc, nên Bồ tát nương theo Bát nhã Ba la mật đa, tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, đạt đến Niết bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương vào Bát nhã Ba la mật đa, được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nên biết : Bát nhã Ba la mật đa là chú Đại Thần, là chú Đại minh, là chú Vô thượng, là chú Vô đẳng đẳng trừ được hết thảy khổ, chơn thật không dối.
Vì vậy, ngài nói bài chú Bát nhã Ba la mật đa liền nói chú rằng : Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề Tát bà ha. ¦
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát diệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Tam Bảo thường gia hộ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Hộ Pháp thường ủng hộ.
Nam-mô Tiêu Tai Giáng Cát Tường Bồ-tát. O
KỆ KHEN PHẬT DI ĐÀ
Tướng Phật Di Đà sánh chẳng qua,
Sắc vàng sáng ánh tốt hơn hoa,
Bạch hào chiếu dịu năm non cả,
Thanh nhãn trong ngời bốn biển xa,
Trong sáng hóa ra vô số Phật,
Hiện hàng Bồ tát cũng Hằng sa,
Lợi sanh Bốn tám lời từ nguyện,
Chín phẩm Liên đài độ chúng ta. ¦
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế giới, Đại từ Đại bi, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật. ¦
Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần) ¦
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (3 lần) ¦
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (3 lần) ¦
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần) ¦
Nam mô Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (3 lần) ¦¦ ¦
SÁM CẦU AN
Con quì lạy Phật chứng minh,
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền.
Cầu cho tín chủ hiện tiền,
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hoà,
Thọ trường hưởng phước nhàn ca,
Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi,
Quan Âm phù hộ vui chơi,
Mười hai câu nguyện độ đời nên danh.
Thiện nam, tín nữ lòng thành,
Ăn chay, niệm Phật làm lành vái van.
Quan Âm xem xét thế gian,
Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm
Mau mau niệm Phật Quan Âm,
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa.
Đương cơn lửa cháy đốt ta,
Niệm danh Bồ tát hóa ra sen vàng.
Gió giông đi biển chìm thuyền,
Niệm danh Bồ tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỉ báo khùng điên,
Niệm danh Bồ tát mạnh liền khôn ngoan.
Vào rừng cọp rắn nghinh ngang,
Niệm danh Bồ tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra,
Quan Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê man,
Quan Âm niệm niệm vái van tịnh bình.
Quan Âm thọ ký làm tin,
Tuỳ duyên thuyết pháp độ mình hết mê.
Nương theo Bồ tát trở về,
Thấy mình ngồi gốc Bồ đề giống in,
Tay cầm bầu nước tịnh bình,
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng.
Cam lồ rưới khắp thế gian,
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn.
Quan Âm cứu hết tai nàn,
Độ đời an lạc mười phương thái bình.
Quan Âm điểm đạo độ mình,
Quan Âm Bồ tát chứng minh độ đời.
Hoặc tụng bài: SÁM PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con quỳ trước điện,
Chí tâm đảnh lễ Đấng Từ Tôn,
Biết bao phen sanh tử dập dồn,
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo.
Đức Thế Tôn đã đinh ninh di giáo,
Mà con còn đắm đuối mê say,
Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày,
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh,
Mũi quen ngữi mùi thơm bất tịnh,
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go,
Thân ưa dùng gấm vóc sa sô,
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ,
Bởi lục dục lòng tham chứa đủ,
Lấp che mờ trí huệ từ lâu,
Hôm nay con giác ngộ hồi đầu,
Xin sám hối phơi bày tỏ rõ.
Nguyện tội ác từ nay dứt bỏ,
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê,
Trước đài sen thành kính hướng về,
Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo.
Phật giới cấm chuyên trì chu đáo,
Dứt tận cùng cội rễ vô minh,
Chí phàm phu tự lực khó thành,
Cầu Đại giác từ bi gia hộ,
Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ,
Con dốc lòng vì đạo hy sinh,
Nương từ quang tìm đến bảo thành,
Nguyện tự giác giác tha viên mãn.
SÁM NGUYỆN
Đệ tử kính lạy.
Đức Phật Thích Ca.
Phật A Di Đà.
Mười phương Chư Phật.
Vô thượng Phật pháp.
Cùng Thánh Hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời, lâu kiếp.
Nghiệp chướng nặng nề.
Tham giận kiêu căng.
Si mê lầm lạc.
Ngày nay nhờ Phật.
Biết sự lỗi lầm.
Thành tâm sám hối.
Thề tránh điều dữ.
Nguyện làm việc lành.
Ngưỡng trông ơn Phật.
Từ Bi gia hộ.
Thân không tật bệnh.
Tâm không phiền não.
Hằng ngày an vui tu tập.
Pháp Phật nhiệm mầu.
Để mau ra khỏi luân hồi.
Minh tâm kiến tánh.
Trí huệ sáng suốt.
Thần thông tự tại.
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng.
Cha Mẹ, anh em.
Thân bằng quyến thuộc.
Cùng tất cả chúng sanh.
Đều trọn thành Phật đạo.
KỆ HỒI HƯỚNG
Tụng kinh là hạnh tốt lành,
Vô biên phước đức sẵn dành chúng sinh.
Nguyện cho tất cả hàm linh,
Sớm về cõi Tịnh nghe kinh diệu huyền,
Nguyện tiêu ba chướng não phiền,
Cầu chơn trí huệ, phá xiềng vô minh.
Nguyện trừ tội chướng điêu linh,
Hạnh lành Bồ tát thường tinh tấn làm.
Nguyện sanh cõi Tịnh siêu phàm,
Hoa sen Chín phẩm sẽ làm mẹ cha.
Hoa nở thấy Phật hiện ra,
Vô sanh chứng ngộ, bạn ta Thánh Hiền.
Nguyện đem công đức hiện tiền,
Hướng về khắp cả các miền gần xa.
Con và cha mẹ ông bà,
Chúng sanh giác ngộ chan hòa Pháp thân.
PHỤC NGUYỆN
Nam mô A Di Đà Phật ¦
Phục nguyện: Ba thân ba cõi, nghìn mắt nghìn tay.
Cờ pháp gió bay, thuyền từ sóng vỗ.
Lòng thương cứu khổ, bi trí ban vui.
Cam lồ nếm mùi, tiêu tan bệnh tật.
Dương chi sái tịnh, sạch sẽ tội khiên.
Đất nước bình yên, nhân dân an lạc. ¦
Vừa rồi, chúng con một dạ chí thành, phúng tụng chơn kinh, có bao công đức, hồi hướng phương Tây, trang nghiêm cõi Tịnh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu ba đường khổ. ¦
Duy nguyện:
Cầu an chư Phật tử : . . . . . . . . . . . .
Phước huệ song tu, thân tâm an lạc, thường được kiết tường, xa lìa khổ ách, tinh tấn tu hành, sớm thành đạo quả. ¦
Thứ nguyện:
Cầu siêu chư hương linh …
Và cửu huyền thất tổ, Nội ngoại hai bên, Chiến sĩ trận vong,
Đồng bào tử nạn, Nương nhờ Tam bảo, Bước đến đạo tràng,
Nghe kinh nghe kệ, Sớm thoát đường mê, Sanh về Cực Lạc. ¦
Phổ nguyện: Âm siêu dương thới, Pháp giới chúng sanh,
Đồng thành Phật đạo. Nam mô A Di Đà Phật.
(Hoặc Phục nguyện bài này):
Kính nguyện: Các đức Thế Tôn thường trú trên đời xin thương xót con: vì ngay trong kiếp này và những kiếp xa xưa, từ đời vô thỉ, con đã từng lầm lẫn, đã gây khổ đau cho chính bản thân và cho kẻ khác. Tự mình gây ra lầm lỗi, hoặc xúi người khác làm nên lầm lỗi, hoặc tán đồng theo, giết hại, trộm cắp, dối trá, tà dâm với những tà nghiệp khác trong mười nghiệp bất thiện, hoặc có che giấu hoặc không che giấu. Những tội lỗi ấy đưa về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, làm cho kiếp sau sinh nơi biên địa, sáu căn khiếm khuyết, không có điều kiện lớn lên thành người. Những tội chướng ấy hôm con nguyền nhất tâm cầu xin sám hối. (1 lạy)
Xin chư Phật Thế Tôn chứng biết cho con, thương tưởng đến con. Con phủ phục trước mặt các Ngài phát lời thệ nguyện rằng: Trong vô lượng kiếp xa xưa, cũng như trong đời này, nếu con đã từng bố thí dù chỉ một nắm cơm, hoặc một manh áo, nếu con đã từng nói lời ái ngữ dù chỉ một vài câu; nếu con đã từng biết nhìn với con mắt Từ bi dù chỉ trong chốc lát; nếu con đã từng có cử chỉ an ủi, vỗ về dù chỉ một vài lần; nếu con đã từng lắng nghe diệu pháp dù chỉ một buổi; nếu con đã từng cúng dường trai Tăng dù chỉ một lần, nếu con đã từng cứu mạng chúng sinh dù chỉ là vài con sâu con kiến; nếu con đã từng tụng đọc Kinh văn dù chỉ một vài câu; nếu con đã từng xuất gia dù chỉ trong một kiếp; nếu con đã từng nâng đỡ kẻ khác trên đường tu học dù chỉ giúp được vài người; nếu con đã từng tu tập tịnh giới dù chưa được hoàn toàn thanh tịnh; tất cả những công đức ấy đều là những thiện căn con đã gieo trồng. Hôm nay xin gồm thâu tất cả lại kính dâng lên chư Phật như một tràng hoa ngát hương và xin hồi hướng tất cả các công đức ấy về quả vị Bồ đề. (1 lạy)
Con xin mở lòng rộng lớn hướng về Vô thượng Chánh giác. Nguyện đạt tới hiểu biết lớn, nguyện thành tựu thương yêu sâu; nguyện tu tập chuyên cần, chuyển hóa khổ đau cho con và cho tất cả mọi loài. Tất cả mọi động tác của thân, miệng, ý đều xin hướng về làm hạnh phúc cho mọi người, mọi loài. Đó là ước mong sâu sắc nhất của con. Ngoài tâm Bồ đề, ngoài khao khát hiểu biết lớn, ngoài nguyện ước thương yêu sâu, con không còn ước mong nào nữa cả. Chư Phật trong mười phương và ba đời đều đã từng hồi hướng như thế. Hôm nay con cũng xin hồi hướng như thế. Bao nhiêu lầm lỗi đều xin sám hối, bao nhiêu công đức đều xin tùy hỷ. Biển công đức vô lượng, cũng là núi trí tuệ cao vòi vọi. Chư Phật và Thầy tổ là ánh sáng soi chiếu cho con. Trong giờ phút trang nghiêm, xin đem thân mạng này quay về và đảnh lễ. (1 lạy)
Nam mô A Di Đà Phật.
Ba Tự Quy Y
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sanh, hiểu thấu đại đạo, phát tâm vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sanh, thâm nhập ba tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sanh, quản lý đại chúng, tất cả không ngại. (1 lạy)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
(Hết.)
Thảo luận về post