- Bài viết liên quan
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 1] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 2] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 3] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 5] – Gs. Lê Mạnh Thát
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP
Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
GIỚI THIỆU
GIẢI DI ĐÀ KINH
Kinh A Di Đà, kể từ ngày Cưu Ma La Thập (Kumarajìva) dịch vào năm 402 từ bản tiếng Phạn Sukhavatìyùhà, hiện còn được bảo tồn, chắc chắn đã được các Phật tử Việt Nam biết tới và đọc tụng. Nhưng các tư liệu hiện thấy, ta không có bất cứ một thông tin nào ghi nhận về sự xuất hiện của nó, cho đến khi Minh Châu Hương Hải viết Giải Di Đà kinh. Cho nên để hiểu cụ thể lịch sử phát triển của tư tưởng tịnh độ ở nước ta, Giải Di Đà kinh có vị thế xung yếu .
I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Văn bản chúng tôi hiện sở hữu là bản in năm Minh Mạng thứ 14 (1833), khổ 13*27, gồm 43 tờ, trong đó 2 tờ đầu in bài tựa cho việc khắc lại các kinh (Trùng san chư kinh tự), 39 tờ đánh số liên tục từ 1 đến 39 in Giải Di Đà kinh, và 2 tờ cuối cùng đề trên gáy là Di Đà kinh mạt ghi tên những người ủng hộ tinh thần và vật chất cho việc in lại bản giải kinh này. Mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 8 dòng chữ cỡ lớn và 16 dòng cho cỡ chữ in nhỏ. Chữ cỡ lớn in chính văn chữ Hán, còn chữ cỡ nhỏ để in lời giải bằng tiếng Việt quốc âm. Mỗi dòng chữ lớn có 17 chữ, còn chữ nhỏ có 16 chữ. Đây là một bản in đẹp, chữ khắc rõ ràng dễ đọc, tương đối không có sai sót gì nhiều, tuy nhiên đôi khi cũng có khắc lộn chữ này qua chữ kia mà dễ thấy nhất là chữ cùng hay cũng ( ) thường hay bị khắc thành chữ kỳ ( ).
Người đứng bản in này căn cứ bài tựa Trùng san chư kinh tự là Thiền sư Từ Tường, thuộc chùa Linh Sóc, xã Hà Hồi. Theo bản in của bài tựa đây thì tên xã là Hà Huýnh, nhưng căn cứ vào danh sách những người cúng bản gỗ để in kinh thì ta có tên Hà Hồi xã. Hơn nữa theo Các tổng trấn xã danh bị lãm, trong các làng xã Việt Nam ở miền Bắc vào đầu thế kỷ 19, không có xã nào tên Hà Huýnh cả, mà chỉ có tên xã Hà Hồi, thuộc tổng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng (tức thuộc huyện Thường Tín, Hà Tây ngày nay). Vì chưa có điều kiện điều tra thực địa về ngôi làng Hà Hồi này, cho nên chúng tôi không biết làng này có ngôi chùa nào tên Linh sóc không. Do thế, về vị thiền sư Từ Tường, ta hiện chưa biết rõ lai lịch .
Trong 2 tờ cuối ghi tên những người ủng hộ tinh thần và vật chất cho việc in lại Di Đà kinh (Trùng san Di Đà kinh) ta thấy liệt kê một loạt tên những vị “chứng san” như đại đức Thanh Hoà chùa Hoa Lâm, đại đức Trí Thủy chùa Sùng Phúc, tỷ kheo Từ Tạng, tỷ kheo Từ Dung, tỷ kheo Chiếu Huyên, tỷ kheo Thanh Nhã, tỷ kheo Bảo Đỉnh, tỷ kheo Thanh Khê, v.v…Nhưng những người này hiện tại cũng chưa rõ lai lịch, nên cũng không giúp gì được việc truy tìm lại tiểu sử của thiền sư Từ Tường .
Người viết tựa cho lần in này có tên là Đặng Hy Hiến. Hy Hiến rõ ràng là tên chữ, tên thật là gì ta hiện chưa biết. Ông viết lời tựa ở tại thư xá của ông gọi là Tiên thị. Và tự nhận mình là một nhà Nho. Ông chỉ giữ chức trách viết tựa, mà không có tham gia vào việc chỉnh cú hay sửa lại sai sót của những bản in trước. Việc chỉnh cú này theo ông là do thiền sư Từ Tường thực hiện. Về nhân vật Đặng Hy Hiến này, cũng trong bảng danh sách những người ủng hộ in kinh, có ghi tên một cử nhân khoa Tân mão tên là Đăng Văn Kham, thuộc thôn Cự Đình, xã Lộc Đình, huyện Văn Giang, phủ Thuận An (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Theo Quốc triều hương khoa lục 1 tờ 49a7, thì đúng là năm Minh Mạng thứ 12 Tân mão (1831) trong những người đậu cử nhân tại trường thi Thăng Long có tên Đặng văn Kham. Và cũng theo sách này thì Đặng Văn Kham làm quan đến chức Án sát ở Quảng Nam, sau đó bị tội, nhưng không cho biết ông có tên hiệu là gì, nên cũng không thể đồng nhất Đặng Hy Hiến với Đặng văn Kham. Về sự việc này cũng cần điều tra thêm mới làm rõ được .
Ngoài Đặng văn Kham, bản danh sách này cũng có ghi thêm tên đường huynh của Kham là tú tài Đặng văn Chính. Song một lần nữa, về Đặng văn Chính ta cũng không biết gì hơn, nên không thể bình luận gì về quan hệ với Đặng Hy Hiến .
Dẫu vậy, lời tựa của Đặng Hy Hiến đã cho ta biết ít nhiều về bản đáy, mà thiền sư Từ Tường đã dùng để in lại Giải Di Đà kinh. Theo Đặng Hy Hiến, do việc khi đem in thì các bản gỗ xưa bị thiếu, nứt và sứt nát, vị thiền sư đã bổ xuyết vào những chỗ thiếu và mất, để đem khắc bản (cổ bản khuyết liệt, hoán mạn chi dư, bổ xuyết lậu đật, phục phó kỷ quyết). Tuy nhiên, bản in chúng ta có hiện nay không có dấu hiệu gì để giả thiết có 2 loại bản gỗ khác nhau, tức bản khắc cũ và bản khắc mới do Từ Tường bổ sung vào. Nói khác đi, đây là một bản khắc hoàn toàn mới. Vậy khi khắc bản gỗ cho lần in này, Từ Tường chắc đã có trong tay một văn bản của lần in trước, và lần in trước này có khả năng cách Từ Tường khá lâu, bởi vì lối chữ quốc âm thường có những chữ giả tá của thế kỷ 18. Ví dụ như chữ đến, viết là điển, không có chữ chí cạnh bên; chữ suốt viết là …v.v. Hiện ta không biết trước lần in này còn bao nhiêu lần in nữa, nhưng chắc chắn ta biết bản in củaTừ Tường là dựa vào 1 bản in trước đó, vì nó có nói đến bản gỗ khắc cũ .
Văn bản này có mấy tên gọi khác nhau. Từ tờ 1 trở đi, tên gọi chính là Phật thuyết A Di Đà kinh sớ sao tự. Rồi tờ 7 có tên là Phật thuyết A Di Đà kinh. Nhưng trên gáy tất cả từ tờ 1 đến tờ 39, trừ tờ 4 đến tờ 6 đều gọi là Di Đà kinh thích giải hoa ngôn. Còn tờ 4 đến tờ 6, trên gáy chỉ có Di Đà kinh. Hai tờ ghi danh sách những người cúng kinh cũng ghi là Di Đà kinh. Như thế, ở đây ta có những tên gọi khác nhau của bản văn giải thích này. Tuy nhiên, cứ vào Hương hải thiền sư ngữ lục, ta có tên Giải Di Đà kinh. Tên này được ghi vào trong số các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải và được lưu hành để những người khác chép lại, thì rõ ràng nó tương đối phổ thông. Hơn nữa, vì nó được ghi vào trong Hương hải thiền sư ngữ lục, mà cuốn ngữ lục này lại in vào năm 1847. Vì thế, nó phần nào có tính cổ sơ khi so với tên của bản in chúng ta hiện có. Chúng tôi do thế đề nghị gọi văn bản mà chúng ta hiện sở hữu trong tay bằng tên gọi Giải Di Đà kinh .
II. NĂM BIÊN SOẠN VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
Theo Hương hải thiền sư ngữ lục thì các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đều viết tại chùa Nguyệt Đường, nghĩa là từ những năm 1685 trở về sau cho đến khi ông mất vào năm 1715. Thế thì trong gần 30 năm này, ông đã viết Giải Di Đà kinh vào thời điểm nào. Theo chúng tôi nghĩ vì Minh Châu Hương Hải đánh giá rất cao phương pháp niệm Phật tịnh độ, đặc biệt là khi ông ra ở tại viện Thiền tịnh của núi Quy Thái, tỉnh Thừa Thiên bây giờ, tức vào khoảng năm 1665, chắc chắn ông đã quan tâm đến các văn hiến liên hệ với phương pháp tu hành này, trong đó có bộ A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng (1535-1615). Thực tế như sẽ thấy dưới đây, Giải Di Đà kinh là một bộ thích giải chủ yếu dựa vào A Di Đà kinh sớ sao vừa nói.
Điểm lôi cuốn là sau khi Châu Hoằng mất không lâu, tác phẩm của ông đã được truyền qua nước ta và được Minh Châu Hương Hải biết tới. Có khả năng ông đã biết đến tác phẩm này từ những ngày ông còn ở miền Nam, tức vùng Thuận hoá và Quảng nam. Dẫu sao đi nữa, dù biết trước khi ra Bắc hay sau đó, điều chắc chắn là trong thế kỷ thứ 17, tác phẩm của Châu Hoằng đã phổ biến rộng rãi bên ngoài Trung quốc. Sự kiện này cho chúng ta một nhận định khá hấp dẫn về tình trạng giao lưu văn hoá giữa các dân tộc vào thế kỷ ấy. Đó là đã có sự giao lưu thường xuyên và đồng thời giữa các nền văn hoá của các dân tộc khác nhau thời đó, đặc biệt trong đó có cả văn hoá Phật giáo .
Theo phân tích hiện nay về Giải Di Đà kinh, thì tuy Minh Châu Hương Hải đã dựa vào A Di Đà kinh sớ sao, nhưng ông đã không hoàn toàn bám sát tác phẩm của Châu Hoằng. Tác phẩm của Châu Hoằng gồm 4 quyển, giải thích rất dông dài từng đoạn văn 1. Bây giờ nếu ta so sánh giữa 2 tác phẩm của Châu Hoằng và Minh Châu Hương Hải thì không thấy có sự bám sát sít sao. Chẳng hạn, ngay câu đầu của bài tựa :”Linh minh động triệt, trạm tịch thường hành, phi trọc phi thanh, vô bối vô hướng. Đại tai chân thể, bất khả đắc như tư nghị giả, kỳ duy tự tánh du”, Châu Hoằng đã dùng đến 1026 chữ để giải thích, tức “sớ sao”. Trong khi đó, Minh Châu Hương Hải chỉ dùng hơn 100 chữ Việt để vừa dịch vừa giải thích câu đó. Nói thế có nghĩa là Minh Châu Hương Hải đã tóm tắt A Di Đà kinh sớ sao và giải thích lại bằng tiếng Việt .
Tuy nhiên, không phải bao giờ Minh Châu Hương Hải cũng tóm tắt một cách trung thành những lời giải thích của Châu Hoằng. Lấy thí dụ, khi giải thích về tên Cấp Cô Độc, thì ai cũng biết đây là tên dịch tiếng Hán của Anathapindika, một cư sĩ đệ tử nổi tiếng của Đức Phật và nổi tiếng vì ông thường hay bố thí cho những người cô và độc tức những trẻ em không cha mẹ và người già không vợ con. Thế mà trong Giải Di Đà kinh, Minh Châu Hương Hải đã giải thích Cô Độc như sau :”Cô Độc là thầy tu, trên từ lục thân gọi là Cô, dưới xả thê tử gọi là Độc”. Đây là lời giải thích mà ta không tìm thấy trong A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng. Thực tế về vị cư sĩ nổi tiếng này, Châu Hoằng viết :”Cấp Cô Độc, trẻ mà không cha gọi là Cô, già mà không con gọi là Độc, nay chỉ nơi không nương tựa, không nuôi dưỡng, thì gọi là Cô Độc”, như A Di Đà kinh sớ sao 2 tờ 376a8-9 (188c8-9) đã ghi. Nói khác đi, ta không tìm đâu ra cách giải thích Cấp Cô Độc liên hệ với thầy tu như Minh Châu Hương Hải đã có .
Nói tóm lại, khi viết Giải Di Đà kinh, Minh Châu Hương Hải đã dựa vào A Di Đà kinh sớ sao, lấy đây làm nguồn tư liệu chủ yếu, nhưng rút gọn bớt tới gần 90 % và thêm vào những kiến giải riêng của mình. Chính những kiến giải thêm này đã làm nên bộ mặt riêng của Giải Di Đà kinh .
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Giải Di Đà kinh được tổ chức trong bản in lần này thành 3 phần. Trong 39 tờ đánh số liên tục, ta thấy 6 tờ đầu dành cho phần giải thích lời tựa của A Di Đà kinh sớ sao. Tờ thứ 6 ghi lại nghi thức đọc kinh, 33 tờ còn lại hoàn toàn dành cho việc giải thích A Di Đà kinh, bản dịch của La Thập và dựa vào A Di Đà kinh sớ sao. Vì dựa vào A Di Đà kinh sớ sao, cho nên cách giải thích của Minh Châu Hương Hải bị ảnh hưởng của Châu Hoằng. Thứ nhất, khi viết A Di Đà kinh sớ sao, Châu Hoằng đã nói rõ ông dựa vào Hoa Nghiêm kinh sớ diễn nghĩa sao của Trừng Quán (738-840) để có tên là “sớ sao”. Sớ là để giải thích kinh và sao để tóm tắt ý nghĩa của những giải thích đó. Vì chịu ảnh hưởng của Trừng Quán, tức tư tưởng Hoa Nghiêm nên Châu Hoằng mới đề ra lối giải thích đặc thù của riêng mình gọi là xứng lý, mà Minh Châu Hương Hải đã tiếp thu và cải biên. Một trong những nét cải biên dễ thấy nhất là Minh Châu Hương Hải đã gộp sớ và sao vào một, bằng chính việc ông ghi lời sớ sao rằng. Trong khi đó, Châu Hoằng phân chia ra rành rẽ giữa sớ và sao. Thông thường, sao còn được viết dài hơn sớ nữa.
Mặt khác, thời kỳ A Di Đà kinh sớ sao ra đời là thời kỳ phong trào tâm học của Vương Dương Minh (1472-1529) phát triển rầm rộ, vì thế khi viết A Di Đà kinh sớ sao, Châu Hoằng đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ lý luận tâm học của phong trào ấy. Điều này ta có thể thấy rõ ngay câu đầu của lời tựa, khi Châu Hoằng viết :”Linh minh động triệt, trạng tịch thường hằng”. Linh minh là một phạm trù đặc biệt của tư tưởng tâm học Vương Dương Minh. Trong Truyền tập lục quyển hạ, Vương Dương Minh đã xác định :”Linh minh của ta là chúa tể của trời đất quỷ thần…Trời đất quỷ thần vạn vật, mà rời linh minh của ta, thì không có trời đất quỷ thần vạn vật và linh minh của ta, mà rời trời đất quỷ thần vạn vật, thì không có linh minh của ta nữa”. Cho nên, khi viết Giải Di Đà kinh, Minh Châu Hương Hải cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng tâm học Vương Dương Minh .
Bố cục của A Di Đà kinh sớ sao gồm 3 phần . Phần thứ nhất trình bày tổng quát, thể hiện qua bài tựa nói lý do tại sao viết bản giải thích này. Đó là vì các bản sớ xưa quá giản lược và ít lưu hành ở đời, cho nên phải viết lại. Phần thứ hai là giải thích văn nghĩa, gồm 10 vấn đề. Một là lý do xuất hiện của Phật giáo nói chung và Kinh A Di Đà nói riêng. Hai là vấn đề phán giáo, tức xếp loại kinh này thuộc loại gì. Ba là vấn đề đốn tiệm, tức xếp phương pháp tu hành của kinh này thuộc dạng tông phái nào. Bốn là nói về đối tượng nhắm tới của kinh này, tức những ai có thể thực hành được. Năm là bản chất giáo lý của kinh. Sáu là chủ trương của kinh. Bảy là bộ loại của kinh.
Tám là vấn đề dịch giải và trì tụng. Chín là giải thích tên kinh. Và mười là giải thích văn bản của kinh. Trong 10 vấn đề này, Châu Hoằng còn chia làm nhiều đoạn nhỏ. Riêng 2 vấn đề cuối cùng tức giải thích tên kinh và giải thích văn bản kinh, thì Châu Hoằng còn chia thành nhiều tiểu đoạn nữa. Đặc biệt về vấn đề giải thích văn bản kinh, Châu Hoằng đã sử dụng lại lối phân đoạn của các nhà chú giải xưa nay, tức là chia nó làm 3 đoạn nhỏ, gồm đoạn tựa, đoạn chính tông và đoạn lưu thông. Riêng trong đoạn lưu thông, một nét khác của Châu Hoằng là gồm vào trong kinh bài A Di Đà chú .
Nội dung và quan điểm của A Di Đà kinh sớ sao là thế. Minh Châu Hương Hải khi viết Giải Di Đà kinh cũng đã bám sát tuy sơ lược như đã nói. Điểm cần chú ý là tại sao Minh Châu Hương Hải lại chọn A Di Đà kinh sớ sao, trong số các bản giải thích về kinh A Di Đà được biết ở thời ông. Ví dụ A Di Đà kinh sớ của Trí Viên (1177-1022) và xưa hơn nữa là của Khuy Cơ (632-682), của Nguyên Hiểu (618-686) v.v… Nói khác đi, trước khi Châu Hoằng viết A Di Đà kinh sớ sao, ta có nhiều bản giải thích khác nhau về kinh A Di Đà của những nhà chú giải nổi tiếng như Khuy Cơ , Nguyên Hiểu v.v…Trả lời câu hỏi trên, ta cần chú ý đến tình hình học thuật và tư tưởng thời Minh Châu Hương Hải tại Trung quốc cũng như nước ta. Ở Trung quốc như đã thấy, phong trào tâm học của Vương Dương Minh đang phát triển mạnh mẽ.
Còn ở nước ta, tại vùng đất Minh Châu Hương Hải sống trước khi ra Bắc, tức khoảng từ năm 1647 trở đi, 1 trong những người theo thuyết Vương Dương Minh nổi tiếng là Chu Thuấn Thủy đã đến nước ta. Chu Thuấn Thủy đã sống ở nước ta 10 năm nhưng không được các chúa Nguyễn trọng dụng, nên sau đó qua Nhật và nhập tịch vào nước này năm 1657. Chính Chu Thuấn Thủy đã truyền tư tưởng tâm học của Vương Dương Minh cho học giới Nhật bản, đặt nền móng cho sự phát triển nền tâm học, mà sau này đã tác động mạnh mẽ đến phong trào duy tân thế kỷ 19 do Minh Trị lãnh đạo. Thời gian 10 năm sống tại Quảng Nam và Thuận hoá, Chu Thuấn Thủy dù không thuyết phục các chúa Nguyễn theo tư tưởng của mình, chắc hẳn có một số tác động lên học giới Việt Nam, trong đó nhất định có cả Minh Châu Hương Hải. Có lẽ do những tác động ấy, mà sau này ông đã chọn A Di Đà kinh sớ sao làm nguồn tư liệu tham khảo để viết nên Giải Di Đà kinh .
Như vậy, nội dung Giải Di Đà kinh tuy lấy nguồn tư liệu từ A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng, nhưng thực chất về mặt tư tưởng, khi phân tích ta thấy nó nằm trong quỹ đạo chung của tư tưởng thiền Tịnh độ của Phật giáo Việt Nam. Quả thực quan niệm tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ mà Châu Hoằng chủ trương và Minh Châu Hương Hải nêu lại bằng câu tiếng Việt “tự tính Di Đà, một lòng tịnh độ”, ta không cần tìm đâu xa, chỉ cần đọc lại Hội thứ 2 Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông :
Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Ta thấy ngay trước Châu Hoằng và Minh Châu Hương Hải mấy thế kỷ, nó đã được nêu lên và xác định một cách rõ ràng. Điểm lôi cuốn hơn nữa là Minh Châu Hương Hải còn nhắc tới kinh Pháp đàn, mà khi tra lại A Di Đà kinh sớ sao 2 tờ 389b16 (195b16) thì đúng là Pháp bảo đàn, để phê phán việc Pháp bảo đàn ghi lộn thế giới Cực lạc chỉ cách ta mười vạn 8 ngàn dặm. Trong Sự lý dung thông, Minh Châu Hương Hải đã nói tới việc mình”vui về bề diệu dược liên bang”. Do thế, trước sau như một, nội dung thiền của tư tưởng Minh Châu Hương Hải là tư tưởng thiền tịnh, coi việc niệm Phật như một phương tiện hành thiền mà vào thời ông đã trở nên rất phổ biến. Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) viết Bồ đề yếu nghĩa để xiển dương tư tưởng thiền tịnh. Rồi một đồng đại trẻ tuổi của ông là Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) đã viết Tịnh độ yếu nghĩa [Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập, tập 1, Tp.Hồ Chí Minh, 1979, tr.159-190] cũng nhắm cùng một mục đích .
Và qua Giải Di Đà kinh ta ít nhiều nhận ra quan điểm của Minh Châu Hương Hải, dù có ảnh hưởng của Châu Hoằng, về giá trị của việc trì chú. Ông viết :”Chuyện trì danh hiệu thắng hơn trì chú, thắng hơn hết thảy chư dư công đức”. Rõ ràng khi viết thế, ông đã không che giấu thái độ cũng như cách đánh giá không cao vị thế và vai trò của việc trì chú. Nếu đọc Hương hải thiền sư ngữ lục, với nhiều mô tả dài dòng mà kỹ càng về việc ông đối phó với những hiện tượng ma quái, về việc trị bệnh nổi tiếng của ông, ta tưởng Minh Châu Hương Hải quí trọng việc trì chú. Thế mà khi đọc Giải Di Đà kinh, với câu vừa dẫn trên, ta mới thấy quan điểm của ông thế nào đối với việc trì chú. Điều này giải thích cho chúng ta rất nhiều vai trò của mật giáo trong đời sống thực tiễn của Phật giáo Việt Nam .
Người Phật giáo Việt Nam có thể niệm Phật, tụng kinh, trì chú, nhưng họ vẫn nhận mình là những môn đồ của thiền một cách tự nhiên mà không gượng ép. Đôi khi những sinh hoạt niệm Phật tụng kinh, trì chú ấy có vẻ nổi bật, dễ dẫn người ta đến ấn tượng rằng sinh hoạt Phật giáo Việt Nam chủ yếu bao gồm những hình thức như thế. Thực tế qua lịch sử, ta thấy những vị thiền sư danh tiếng nhất một thời đều ít nhiều liên hệ đến những sinh hoạt kiểu đó, như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh v.v…Và những vết tích khảo cổ còn lại như hàng loạt cột kinh tìm thấy tại cố đô Hoa Lư, đều thể hiện sâu đậm nếu không nói là toàn bộ ảnh hưởng của mật giáo. Điều này gây thắc mắc cho một số người, rằng tại sao thiền tông của Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ mật giáo như thế.
Sự thật căn cứ vào những mô tả về cuộc đời những con người ấy cùng những vết tích còn lại, người ta nêu lên câu hỏi trên thực tế ở Việt Nam có tồn tại một hình thức Phật giáo gọi là thiền tông hay không? Hay thiền tông chỉ là”một tiếng đồn từ tu viện”v.v…Những vị như Vạn Hạnh, Đạo Hạnh v.v…ngày nay ta không còn những tác phẩm liên hệ để có thể biết thái độ của họ. Nhưng với Minh Châu Hương Hải, qua Giải Di Đà kinh, ta thấy thái độ, quan điểm của ông như thế nào. Sự việc này giải thích dứt khoát vì sao ông vẫn tự nhận mình là một thiền sư, và các thế hệ tiếp theo vẫn xác định ông trong tư cách ấy, mà cụ thể là quyển Hương Hải thiền sư ngữ lục .
Việc ông nhấn mạnh trì danh niệm Phật này như một phương pháp thiền, như đã thấy, là nằm trong quỹ đạo thiền của tư tưởng thiền Phật giáo Việt Nam. Ta đã nhắc tới Trần Nhân Tông, nhưng trước Minh Châu Hương Hải không bao lâu, ngay một người Phật tử như Đào Duy Từ (1572-1634) đã mô tả lại phần nào nhận định vừa nêu trong Tư dung vãn của ông :
Một bầu chi cũng thú yên hà,
Nghi ngút hương bay cửa Đại la
Ngày vắng đỉnh đang chuông bát nhã
Đêm khuya dắng dõi kệ Di Đà
Nhặt khoan đàn suối ban mưa tịnh
Eo óc cầm ve thuở ác tà
Mựa rảng đạo xa hoà nhọc kiếm
Bồ đề kết quả ở lòng ta.
Ngôi chùa Việt Nam vào thời Đào Duy Từ ở miền Nam vẫn luôn luôn “dắng dõi kệ Di Đà”. Nói khác đi, tư tưởng tự tính Di Đà là một tư tưởng Tịnh độ đã bị thiền hoá, mà Trần Nhân tông trước đó đã diễn tả bằng câu :”Di Đà là tính sáng soi”, đã lưu hành rộng rãi trong giới Phật giáo Việt Nam, nghĩa là Thiền tông Việt Nam. Cho nên ta có giả thuyết mà không sợ sai lầm, việc Minh Châu Hương Hải giải thích kinh A Di Đà theo hướng A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng không phải là một cái gì hoàn toàn xa lạ với truyền thống Phật giáo Việt Nam, nằm ngoài quỹ đạo phát triển của dòng Phật giáo này. Nó chỉ làm rõ hơn nữa những mặt đặc biệt mà nền Phật giáo này thể hiện .
IV. PHÂN TÍCH VĂN HỌC
Giải Di Đà kinh, như nhan đề nêu lên là một bản giải thích về kinh A Di Đà, lấy nguồn cảm hứng từ tác phẩm A Di Đà kinh sớ sao của Châu Hoằng. Có thể nói nó là một trong số ít tác phẩm xưa nhất hiện biết về lối văn giải thích này. Trước nó ta chỉ có những bản văn xuôi dịch đuổi theo bản chữ Hán của Viên Thái và Nguyễn Thế Nghi. Loại văn xuôi này thường bị nguyên bản chữ Hán khống chế, nên không cho ta biết bộ mặt đích thực của tiếng nói dân tộc hàng ngày của đồng bào ta. Chính qua lối văn giải thích của Minh Châu Hương Hải, ta bước đầu có những bản văn xuôi đích thực do người Việt Nam viết. Cần chú ý là vào thế kỷ này cũng đã có một số bản văn xuôi tiếng Việt được ghi lại, như của Majorica và Alaxandre de Rhodes. Nhưng đây là những tác phẩm do người ngoại quốc ghi lại, và chắc chắn không thể phản ánh đầy đủ và trung thực tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta.
Vì thế, những bản văn xuôi như Giải Di Đà kinh xuất phát từ một ngòi bút Việt Nam, dứt khoát phản ánh trung thực, trọn vẹn tiếng nói của chính dân tộc mình. Ngoài ra như đã nói trên, Minh Châu Hương Hải có được những lợi điểm mà ít người Việt Nam vào thời ông sở hữu. Đó là ông thuộc tầng lớp trên, tầng lớp trí thức của xã hội Việt Nam thời đó, có dịp tiếp xúc với những nhà lãnh đạo quân sự cao cấp nhất của đất nước, và đặc biệt hơn hết, Minh Châu Hương Hải đã sống và làm việc lâu dài ở hai miền khác nhau của đất nước. Nền văn xuôi do ông ghi lại, từ đó có thể coi như một đại biểu trung thành cho tiếng nói của 1 dân tộc thống nhất. Chỉ chừng ấy đặc điểm thôi cũng đã làm cho ta trân trọng những tác phẩm của Minh Châu Hương Hải, và dành cho chúng vị trí xứng đáng trong lịch sử phát triển văn học dân tộc .
Không những thế, bản thân các tác phẩm văn xuôi của Minh Châu Hương Hải, trong đó có Giải Di Đà kinh, đã đạt được một số thành tựu, vươn lên xây dựng được vẻ đẹp mang tính văn học. Thử đọc lại một đoạn văn sau: “Nghe chim kêu hoa nở thì gọi là ngày, chim đỗ hoa hiệp thì gọi là đêm. Hoa có hai giống, một là thiên hoa, hai là thọ hoa. Bốn phương tự nhiên gió thổi, đều ra chủng chủng âm thanh thuyết pháp. Hoa thơm tùy phong, tán cúng chư bồ tát. Hết thảy thanh văn cùng chư đại chúng tán hoa, rắc xuống kim địa, đầy hơn 4 tấc, hoa quang sáng rỡ, hơi thơm lạ lùng…”. Ta có thể cảm thụ một cách dễ dàng những hình tượng được miêu tả một cách trong sáng và rõ ràng. Tiếng nói của dân tộc ta gần 400 năm trước đây là vậy .
Tất nhiên, ta không thể đòi hỏi Minh Châu Hương Hải mở rộng lĩnh vực chuyên môn của mình để đi qua những địa hạt khác của văn học như viết tiểu thuyết bằng văn xuôi chẳng hạn. Những gì ông để lại cho chúng ta hôm nay qua Giải Di Đà kinh, tối thiểu cũng đã giúp cho ta phác họa lại diện mạo tiếng nói thường ngày của cha ông ta cách ta mấy trăm năm. Và đó là những đóng góp to lớn đối với dân tộc ta. Nền văn xuôi do Minh Châu Hương Hải gầy dựng vì thế cần được trân trọng và nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, để ta có thể nhận diện chân dung và khuôn mặt nó rõ ràng và đúng đắn .
BÀI TỰA IN LẠI CÁC KINH
Hễ sắp dựng gác xây nhà với vẻ đẹp khác thường hơn người, thì trước tất phải lo cột kèo cây gỗ. Và để cho cột kèo cây gỗ có được chạm trổ thì phải dùng đến búa, rìu, cưa, đục, dây thước… Há chỉ xem sơ sơ thôi sao? Phải chuyên mắt xem xét, phải thẳng tay ngắm nghía mới được thế. Kẻ sĩ học đạo thánh nhân tất cũng phải bàn kinh sửa truyện, khảo xem trăm nhà, tìm những điều sâu xa, rõ những mối manh tổng quát, sau đó mới đạt được chỗ hiểu. Nhưng điều này há chỉ đặc biệt với nhà nho ta sao?
Cái học họ Thích cũng vậy, nay có thiền sư Từ Tường chùa Linh Sóc, xã Hà Hồi, gọi ta nói: “Người xưa của tông phái tôi vì chúng sanh có căn cơ chậm lụt, đã mở bày sự thật nhiệm màu về ý nghĩa chân thật của pháp môn để giải thoát cho họ, đã viết đủ trong các kinh luật. Nhưng lo về sau bị buông bỏ, nên các bậc hiền đức cổ xưa lại phải bắt đầu nối thêm mà làm ra có luận giải. Từ khi chánh pháp bị suy phế, ý chỉ nhĩ căn của Lăng nghiêm bị che khuất, phương tiện văn chương chảy tới các nước lân cận, thì tệ nạn này càng nổi bùng lên. Ngu tôi từ khi xuất gia đến nay, lòng luôn luôn nghĩ tới chuyện xiển dương chánh giáo, thỉnh thoảng lấy các kinh Lương hoàng, Thủy sám và Dược sư cùng với các bộ chú giải Di Đà, Phổ Môn, Kim cương ở những bản gỗ xưa bị thiếu hư tản mạn còn lại, bổ sung vào những chỗ sót mất, lại giao cho khắc in, để công bố cho những hàng xuất gia, nhằm mở rộng sự nghiệp trí tuệ, rồi luôn luôn thắp hương lễ sám chắp tay đảnh lễ nam mô, để cùng với Phật xưa thánh trước, theo sát không bỏ một phút giây, những mong những pháp môn quảng đại từ bi, không thể nói, không thể bàn, bao dung mà không trở ngại tôi. Than ôi, chúng ta thật có sức để làm Phật ư !
Người ta thường hay khó chịu về cái học không chuyên nhất, nên ngơ ngác không có chỗ thâu hoạch được. Ta nghe đạo Phù Độ nhiều kệ thuyết, lắm giới luật. Việc học nó cũng rất cực khổ, còn việc hiểu được nó thì ta không thể biết. Nhưng việc chấp hành cái học đó để có tiến bộ nhằm nối tổ truyền đèn, tiếp tục tuệ mạng của chư Phật, thì chí hướng của chúng ta cũng gần thế ư. Nếu không vậy, chỉ luống giao vào tay đốt Phật của Đan Hà (?) thì lòng chúng ta càng quặn đau, lại càng nhân thế mà càng cảm thấy thêm nữa. Cái học của nhà nho ta gọi là cái chứa nhóm nhân nghĩa lễ nhạc, là cái học làm sáng tỏ văn chương đạo đức, thì so với cái học của nhà Phật, rất là dễ biết dễ làm. Thế mà đám tụ nho vờ vĩnh, không chịu quan tâm đến thơ truyện, đem văn chương mà khắc in, lại tự xén cắt câu kéo, tước bỏ ý nghĩa, làm cho con đường chính đại đàng hoàng ngày càng nhỏ hẹp lại. Ta há không ra sức có chí như những vị kia mươi chục người để cùng bàn luận về đạo của thánh nhân ta sao. Nên viết bài tựa này .
Hạ tuần tháng mùa thu năm Minh Mạng thứ 14 (1833) của Hoàng Triều
Tường Nguyên Hy Hiến họ Đặng viết ở Thư xá Tiên Thị
Nguyễn Đắc Trung xã Hồng lục khắc chữ.
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH SỚ SAO TỰ
Huyền Cơ Thiện Giác pháp
Tự Minh Châu thích giải
Pháp tử Chân Lý khâm thuật
Chân Quý phụng san
Sơ thông tự đại ý
Linh minh động triệt, trạm tịch thường hằng, phi trược phi thanh, vô bối vô hướng. Đại tai chân thể, bất khả đắc nhi tư nghì giả, kỳ duy tự tính dư?
Linh là linh giác, minh là minh hiển, trạm là bất nhiễm, tịch là bất giao, thiêng biết sáng suốt, thông thâu trong sạch, phẳng lặng hằng bền. Phi trược là chẳng từng thọ nhất trần. (1b) Phi thanh là chẳng từng xả nhất pháp. Vô bối là dầu buông đi, ắt chẳng có thửa mà tùng khứ. Vô hướng là dầu rước tới, ắt chẳng có thửa mà tùng lai. Lớn thay chân thật thể, rộng rãi mãn khắp mười phương, cao thẳm khỏi hết tam tế, lại chẳng có pháp nào mà ví cùng. Há phải đối tiêu rằng đại chân thể là tượng có nhiều danh, ắt gọi là bản tâm bản giác, ắt gọi là chân thức chân tru, chủng chủng dị danh, đương nơi tự giác linh quang, vốn thật nhất tâm cụ túc, chỉn bằng chẳng khá tư nghì được. Thửa một tự tánh vậy vây .
Thường trược nhi thanh, phản bối nhi hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh u phiến ngôn. Chí tai diệu dụng, diệt bất đắc nhị nhi tư nghì giả, kỳ duy Phật thuyết A Di Đà kinh dư?
Trừng là trừng tịnh, chuyển ngũ trược bèn nên thanh thái. Phản là qui hoàn bỏ sa bà bèn tới cực lạc. (2a) Việt tam kỳ là tự Cổ Thích Ca đến Thi Khí Phật, trải qua bảy muôn năm ngàn Phật xuất thế. Từ Thi Khí đến Nhiên Đăng Phật, trải qua bảy muôn sáu ngàn Phật xuất thế. Từ Thiên Đăng đến Bà Thi Phật, trải qua bảy muôn bảy ngàn Phật xuất thế. Ấy là vượt tam kỳ. Chưng nơi nhất niệm tề chư thánh là Phật cùng chư Bồ tát, nhân chưng phiến ngôn hằng niệm A Di Đà Phật, chực quyết vãng sinh, nhất tâm bất loạn, chẳng còn thối chuyển, bèn nên Vô thượng Bồ đề. Ấy là nhất niệm đến siêu, phiến ngôn tức chứng. Rốt ráo thay, diệu dụng ắt khôn tư nghì được, nhân bởi Thích Ca diễn thuyết A Di Đà kinh vậy vây .
Cố ngã Thế Tôn, sạ thuyết tam thừa, chung quy nhất bảo, đẳng ban trân tứ, tiện tích thù ân .
Vì vậy đức Phật Thế Tôn, trước bèn khai quyền, tạm thuyết tiểu thừa dạy chư Thanh văn, trung thừa dạy chư Duyên giác, đại thừa dạy chư Bồ tát, tùy thuận chúng sinh, nhân có lợi độn, phải diễn tam thừa vậy. Sau chúng sinh liễu ngộ, bèn lập nhất phá tam, hội quyền về thật, đều cho tối (2b) thượng đại xa. Vì vậy rằng ban cho đẳng chư trân bảo, lại thêm ơn lạ. Một cửa niệm Phật này, chẳng luận đại căn tiểu căn, dầu tin niệm Phật, nhất tâm bất loạn, ắt được vãng sinh. Hai là trì danh trong nơi ơn lạ, lại thêm lạ mầu vậy .
Chỉ tứ thập bát chi nguyện môn, khai nhất thập lục chi quán pháp, nguyện nguyện quy hồ phổ độ, quán quán tôn hồ diệu tâm .
Dẫn bốn mươi tám lời phát nguyện, chưng cửa nguyện môn; mở 16 đường mật tưởng, chưng pháp quán tưởng. Chu hoằng nguyện đều về phổ độ, đẳng quán tôn chẳng khỏi diệu tâm .
Hựu dĩ nguyện môn quảng đại, quí tại tri tiên, quán pháp thâm huyền, vưu ưng thủ ước. Tri tiên tắc vụ sinh bỉ quốc. Thủ ước tắc duy sự trì danh. Cử kỳ danh hê, kiêm chúng đức nhi câu bị, chuyên hồ trì dã, thống bách hạnh dĩ vô di .
(3a) Lại bèn cửa nguyện môn rộng lớn, ắt rất tôn quý chưng nơi tri tiên. Phép quán tưởng sâu nhiệm, càng lắm trọng, hợp đương thủ ước. Tri tiên ắt vụ bề vãng sinh bỉ quốc. Thủ ước ắt vui hay cần sự trì danh. Cử thửa Phật hiệu, gồm no chúng đức, mà đều đủ. Chuyên thọ trì vậy, thống hết muôn hạnh, bèn chẳng khuy .
Tùng tư nhi vạn lự hàm hưu, cứu cực hồ nhất tâm bất loạn .
Nếu từ đây mà muôn lọ đều rỗi, xét rốt ráo bởi nhất tâm bất loạn .
Nãi tri phỉ ly khuể bộ, bảo trì dũng tứ sắc chi hoa. Bất xuất hộ đình, xin địa nhiễu thất trùng chi thọ. Xứ xứ di đà thuyết pháp, thời thời liên nhụy hoá sinh. Trân câm dự già điểu giai âm. Quỳnh viện cộng mão đường tịnh thái .
Bèn hay (3b) chẳng dời khỏi nước bước, trong bảo trì trổ chen bổn sắc liên hoa, chưa ra ngoài cửa sân, dưới kim địa nhiễu quanh bầy trùng hàng thọ. Mỗi chốn Di Đà đều thuyết pháp, đòi khi liên nhụy cùng hoá sanh, trân cầm già điểu hằng diễn thuyết đồng thanh, ngọc viên hoa đường đều trang nghiêm mọi vẻ .
Cái do niệm không chân niệm, sinh nhập vô sinh, niệm Phật tức thị niệm tâm, sinh bỉ bất ly sinh thử, tâm Phật chúng sinh, nhất thể, trung lưu lưỡng ngạn bất cư, cố vị tự tính di đà duy tâm tịnh độ .
Tượng bởi niệm không, chân niệm sinh, bèn ngộ nhập vô sinh. Niệm Phật ấy thật niệm tâm. Sinh bỉ nào khác sinh thử. Tâm, Phật cùng chúng sinh một thể , chẳng trụ lưỡng ngạn, trung lưu. Vì vậy, rằng tự tính Di Đà, một lòng tịnh độ .
Thử tác lý chi nhất tâm toàn qui thượng trí, diệc phục thông hồ sự tướng, khúc (4a) vị độn căn .
Ấy pháp chưng lý nhất tâm đều về những người thượng trí. Ắt lại dung thông sự tướng, chiều vì những kẻ độn căn .
Nại hà thủ ngu chi bối, trước sự nhi lý vô văn, tiểu huệ chi lưu, chấp lý nhi sự toại phế. Trước sự nhi mê lý, loại mông đồng đọc cổ thánh chi thư, chấp lý nhi di sự, tỉ bần sỹ hoạch hào gia chi khoản .
Nài bao những bậc thủ ngu, chấp lấy sự mà chẳng nghe lý. Những đông tiểu huệ, chấp lấy lý mà phê rẫy sự. Chấp sự mà mê lý, chẳng khác chi chúng trẻ thơ đọc lấy chưng sách tiên thánh. Chấp lấy lý mà bỏ rẫy sự, dường bằng học trò khó bèn được sổ nhà trưởng giả .
Nhiên trước sự nhi niệm năng tương kế, bất hư nhập phẩm chi công, chấp lý nhi tâm thật vị minh, phản thọ lạc không chi họa .
Vậy bèn chấp sự mà hay niệm Phật tương kế, chẳng luống chưng công (4b) vào phẩm vị, chấp lý mà lòng thật chưa minh, lại phải chịu chưng họa lạc không .
Toại sử thùy thủ đồ cần, ỷ môn không vọng, thượng cô phật hoá, hạ phụ kỹ linh, kim sinh dĩ cập đa sinh, nhất ngộ nhi thành bách ngộ, cam tâm khổ thú, thúc thủ tử môn, vô cứu vô quý, khả bi khả thống .
Bèn khiến uổng vội rũ tay, luống trông dựa cửa, trên quả đức chẳng vâng Phật dạy, dưới phụ mình bỏ rẫy kỷ linh, kiếp này đến nhẫn đa sinh, một phen lầm nên trăm phen lỡ. Lòng cam chịu chưng nơi khổ thú, bó tay vào trong cửa tử môn, chẳng ai cứu trợ, chẳng về nương đâu, cực khá thương, cực khá thiết .
Châu hoàng mạt pháp hạ phàm, cùng tưu vãn học, võng thông huyền lý, tố bỉ không đàm, họa bỉnh hà ích cơ trường, yên thạch nam vu cổ mục .
Lời thề nguyền quảng đại, đời mạt pháp (5a) dưới trần phàm, cùng ngung xem chưa khắp, văn học trí chưa sâu, chưa hiểu thông lẽ màu nhiệm, vốn thiển liệt luống đàm không, dường bằng bánh vẽ, nào hay ích chi dạ đói, khác chi yến thạch, khôn dối được mặt chủ thương .
Kỳ thừa tiên sắc, đốc phụng tư kinh, vọng lạc quốc vi gia hương, ngưỡng từ tôn như hổ thị .
Kính vâng lời Phật dạy, đốc phụng sự kinh này, mong về cực lạc quốc, lấy làm chốn gia hương. Ngưỡng vọng đức Từ Tôn, bằng trông cậy mẹ cha .
Nhưng dĩ tâm hoài khiêm lợi, đạo quí hoằng thông, khái cổ sớ tiễn kiến kỳ toàn, duy sổ giải cẩn hành ư thế, từ tuy thiết nhi thái giản, lý vi lộ nhi bất chương, bất cực luận kỳ hoằng công, trù phát khởi hồ chân tín, đốn vong phu (5b) kiến, ký kiệt tâm tư, tổng thu bộ loại ngũ kinh, trực cứ Văn Thù nhất hạnh, nhi phục hội quy huyền chỉ, tắc phân nhập tạp hoa, quán xuyến chủ môn tắc bác tổng quần điển, vô nhất bất tiểu quy tự kỷ, hữu nguyện giai hồi hướng bồ đề, triển thử tinh thành, khất cầu gia bị .
Nhân dùng lòng tư duy lưỡng lợi, đạo tôn quý vì bởi rộng thông. Tin lời xưa, lời bày thấy ít. Vui kể biết chưng thế liệt hành. Lời tuy chí thiết, mà rất ít hiển ra, chưa sáng lẽ nhiệm màu, chẳng cùng luận chưng thửa đại công, chúng phát hành vi nhân chính tín. Bỏ rẫy bì phu ngoại kiến, lòng rỗi hết sự lo toan. Tổng thâu nơi bộ loại năm kinh, chực quyết nương Văn Thù một hạnh, bèn lại hội về huyền chỉ, đại ý ắt thông vào tính hải Hoa Nghiêm. Thấu suốt khắp hết chư môn, ắt máy rộng chưng nơi quần điển. Nào một đâu chẳng tiêu về nơi tự kỷ, hễ có nguyện chưa khuây hồi hướng bồ đề, ấy mở nơi nhất niệm tinh thành, xin cầu gia bị cho thấu khắp.
(6a1) PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH
Cử tán
Lô hương sạ nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tùy xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân
Chư Phật hiện toàn thân
Nam mô Hương Vân Cái bồ tát ma ha tát
(tam biến)
Tịnh khẩu nghiệp chân ngôn
Án tu rị tu rị ma ha tu rị tu tu rị tát bà ha
Tịnh tam nghiệp chân ngôn
Án sa phạ bà phạ truật đà sa phạ đạt ma sa
Phạ bà phạ (6b) truật độ hám
An thổ địa chân ngôn
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm,
Án độ rô độ rô địa vỹ tát bà ha
Phổ cúng dường chân ngôn
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc
(tam biến)
Khai kinh kệ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa
Nam mô Khai Bảo Tạng bồ tát ma ha tát
Phật là Thích Ca, diễn thuyết A Di Đà kinh
Lời sớ sao rằng:
Phật là Ta bà giáo chủ bổn sư Thích Ca, thập hiệu cụ túc, tam giác tề viên. Tự giác ắt khác phàm phu, giác tha ắt khác nhị thừa, giác mãn ắt khác bồ tát. Lại rằng không vọng tâm, danh là tự giác, khỏi huyễn sắc, danh là giác tha. Rồi vọng tâm, rồi huyễn sắc, lòng hằng thanh tịnh, danh là giác mãn .
Kinh có thông biệt dị nghĩa. Một chữ kinh này, thật danh là thông. Phật thuyết A Di Đà năm chữ, thật gọi là biệt. Chư kinh đều đủ giáo, hành, lý vậy. Vốn lý lập giáo, nương giáo tu hành, tùng hành hiển lý, chuyên chỉ kinh này, Phật thuyết ắt thật là giáo. Chấp trì danh hiệu, thật là hành. A Di Đà ắt thật là lý. Lại rằng dung thông tam đức, lý ắt pháp thân đức, giáo ắt bát nhã đức, hạnh ắt giải thoát đức. A Di Đà công đức vô lượng, lại sánh cùng tam đại, ắt Phật thật là thể đại, vô lượng thọ, thật là tướng đại, vô lượng quang, thật là dụng đại .
Xứng lý ắt tự tánh giác là Phật nghĩa, tự tánh giác vô lượng là A Di Đà nghĩa, tự tánh bổn thỉ nhị giác là lưỡng độ quả chứng nghĩa, tự (7b) tánh giác thể biến chiếu thật là thuyết kinh nghĩa .
Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên .
Bằng chân thật ta nghe, một khi Phật trụ ở Xá Vệ quốc, viện Kỳ Thọ, cấp Cô Độc viên .
Lời sớ sao rằng :
Như thị là tín thành tựu vậy. Nhất tâm bất loạn gọi là như. Một lòng chẳng khác gọi là thị. Thật tướng chi lý, thỉ chung chẳng khác, gọi là như. Thuyết thật như lý gọi là thị. Ngã văn là chân văn thành tựu vậy. Ngã là tự ngã thân văn pháp thân chân ngã vậy. Nhất thời là thành tựu chi thời, đương khi thuyết thính sự rồi ắt gọi là nhất thời vậy. Phật là viên giác thành tựu, làm tôn chủ tam thánh lục phàm hết thảy chúng sinh vậy. Tại là thường trụ ứng vô sở trụ. Xá Vệ quốc là Phong đức thành. Kỳ là Kỳ Đà thái tử. Thọ là cây Kỳ Đà thái tử cúng. Cấp là Tu Đạt Noa trưởng giả dựng làm tự vũ tinh xá, hằng thường cung cấp. Cô Độc là thầy tu, trên từ lục thân gọi là cô, dưới xả thê tử gọi là độc, cùng trụ một nơi viện ấy (8a) .
Xứng lý ắt tự tánh đổng triệt thập phương, thật ấy A Nan văn Phật nghĩa. Tự tánh bất ly đương xứ, thật ấy Phật tại Kỳ Viên nghĩa .
Dữ đại Tỳ kheo Tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu, giai thị đại A la hán, chứng sở tri thức .
Cùng những đại Tỳ kheo Tăng nhân, một ngàn hai trăm năm mươi người hằng đủ, đều thật những bậc đại A la hán, chúng thửa hay danh biết lòng thấy tánh, cùng làm tri thức .
Lời sớ sao rằng:
Đại tỳ kheo là nội quyền bồ tát, ngoại thinh văn hạnh. Tỳ kheo có 3 nghĩa. Một là khất sĩ, khất pháp, khất thực, cần cầu thành tựu thánh quả vậy. Hai là bố ma, phát tâm xuất gia, lòng hằng ly dục. Thú hướng vô sinh, chư ma đều bố uý vậy. Ba là phá ác, diệt trừ phiền não nghiệp cấu, lòng hằng thanh tịnh vậy. A la hán bèn có 3 nghĩa, một là ứng cúng, hai là sát tặc, ba là vô sinh. A la hán là tứ quả thinh văn. Đại A la hán là tu vô lậu nghiệp, đức cao danh mãn, làm nhân thiên nhãn mục, đạo dẫn chúng vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô lậu, thật ấy là la hán nghĩa, tự tính vô mê (8b), thật ấy tri thức nghĩa .
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Thy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô, Phả La Đọa, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà .
Ông Xá Lợi Phất cửu tu đức trưởng, trí huệ đệ nhất. Ông Mục Kiền Liên quảng đại, thần thông đệ nhất. Ông Ca Diếp lòng quảng đại, đầu đà thượng hạnh đệ nhất. Ông Ca Chiên Diên, lòng quảng đại, luận nghị đệ nhất. Ông Câu Thy La, lòng quảng đại, ứng đáp đệ nhất. Ông Châu Lợi Bàn Đà Dà, tịnh trừ cấu hoặc đệ nhất. Ông Nan Đà, lòng hoan hỷ đệ nhất. Ông A Nan Đà, đa văn đệ nhất. Ông La Hầu La, mật hạnh đệ nhất. Ông Kiều Phạm Ba Đề, hay thọ chư (9a) thiên cúng dường đệ nhất. Ông Tân Đầu Lô Phả La Đọa, hay ứng nhân giai cúng làm đại phúc điền đệ nhất. Ông Ca Lưu Đà Di, dạ hành quang diệu đệ nhất. Ông Kiếp Tân Na, lòng quảng đại, thông hay tinh tú đệ nhất. Ông Bạc Câu La, diện mạo đoan chính, tuổi thọ trường đệ nhất.Ông A Nậu Lâu Đà, gọi là Như ý thiên nhãn đệ nhất .
Như thị đẳng chư đại đệ tử, tịnh chư bồ tát ma ha tát .
Bằng thật bấy nhiêu người chư đại đệ tử, lại có chư bồ tát cùng đại bồ tát
Lời sớ sao rằng:
Ấy đại đệ tử, ắt trước đại tỳ kheo, đại A la hán. Đệ tử là học ở sau thầy, gọi là đệ, hiểu biết ở nơi thầy sinh, gọi là tử. Lại rằng tiên giác hậu giác, như huynh tiên đệ hậu, hiểu biết bởi thầy sinh vậy. Mở mang dưỡng dục bèn nên pháp khí, thửa rằng tùng Phật khẩu sinh, hợp nối Phật chủng. Bồ tát là giác hữu tình, đồng Phật sở chứng, bèn gọi là giác. Vô minh vị tận, bèn gọi là tình. Bồ tát bèn dùng bi trí nhị nghiêm. Trí là trên cần cầu Phật đạo. (Bi là) dưới thì quyền độ (9b) chúng sinh. Chân thật nhất tâm, thành tựu đại đạo gọi là ma ha tát .
Xứng lý ắt tự tánh, tâm vương tâm số dung thông thật là Phật cùng đệ tử câu nghĩa, tự tính chân vọng tương dung, thật là bố tát nghĩa .
Văn thù sư lợi pháp vương tử, a dật đa bồ tát, càn đà ha đề bồ tát, thường tinh tấn bồ tát .
Văn thù là pháp vương tử, làm thượng thủ chư bồ tát. A dật đa bồ tát đương lai hạ sinh là di lặc Phật. Càn đa ha đề là bất hưu tức bồ tát, ý hằng làm phạm hạnh. lịch hằng sa kiếp chẳng từng hưu tức, thường tinh tấn bồ tát đã vô lượng kiếp hằng tùy hoá độ chúng sinh, chưa từng nhất niệm khí xả, lòng hằng tinh tấn .
Dữ như thị chư đại bồ tát .
Bằng thật các đấng đạo sư cùng chư đại bồ tát .
Lời sớ sao rằng:
Chư đại bồ tát đều cục túc tín hạnh nguyện, kinh Di Đà lấy tín hạnh nguyện làm tịnh độ nhân .
(10a) Xứng lý ắt tự tính vô bất chiếu, thật là Văn thù trí nghĩa, tự tính vô bất dung, thật là Di Lặc từ nghĩa, tự tính vô cùng vô tận, thật là bất Hưu Tức Thường Tinh Tấn nghĩa .
Cập thích đề hoàn nhân đẳng vô lượng chư thiên đại chúng câu .
Đến nhẫn nhục giới thiệu chủ các đấng, vô lượng chư thiên, hết thảy đại chúng.
Lời sớ sao rằng:
Thích Đề Hoàn Nhân là Đao Lợi Đế Thích Thiên chúa cùng 32 Đề Hoàn Thiên tử vậy. Vô lượng chư thiên là dục giới, sắc giới, vô sắc giới đẳng chư thiên vậy. Đại chúng câu là Bồ tát, thinh văn, thiên, nhân, tu la, hết thảy đại chúng vậy .
Xứng lý ắt tự tính triệt thượng triệt hạ, thật ấy bồ tát la hán chư thiên đại chúng câu nghĩa .
Dĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá Lợi Phất .
Khi ấy Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất, trí cao đức trưởng (10b)
Lời sớ sao rằng:
Nhĩ thời là khi thành tựu vậy. Phật cáo là kinh nhân chẳng ai thỉnh vấn, Phật bèn tự thuyết vậy. Xá Lợi Phất trí tuệ thâm thâm, dầu chư Phật đều dùng nhất thiết trí vậy. Di Đà trí xảo phương tiện thành tựu tịnh độ công đức, dùng trí sanh tín ắt nên chánh tín, dùng trí phát nguyện ắt nên hoằng nguyện, dùng trí khởi hạnh ắt nên diệu hạnh, thật được thành Phật vậy .
Xứng lý ắt tự tính tự nhiên trí, thật ấy Phật tự cáo Xá Lợi Phất nghĩa .
Tùng thị tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc .
Thật bởi ta bà sang đến tây phương, khỏi mười muôn ức chư Phật quốc độ, có thế giới danh rằng Cực Lạc .
Lời sớ sao rằng:
Quốc độ, danh là sở y, gọi y báo. Phật là năng y, gọi rằng chánh báo. Ở Ta bà sang đến Tây phương, khỏi mười muôn ức chư Phật quốc độ, xa bèn cực xa, chẳng phải như Pháp đàn kinh thuyết có mười muôn tám ngàn dặm vậy. Phạn ngữ tu ma đề, Hoa ngôn gọi là (11a1) Cực lạc, lại gọi là an dưỡng, an lạc, lại gọi là liên bang, tịnh độ, bỉ quốc, bỉ ngạn vậy .
Xứng lý ắt thật tự tính kiên cố thanh tịnh, thật ấy Tây phương nghĩa, tự tính ly chướng tuyệt phi, thật ấy quá thập vạn ức nghĩa, tự tính hoành cai thụ triệt, thật ấy thế giới nghĩa .
Kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp .
Thửa quốc độ ấy có phật hiệu là A Di Đà, nay hằng hiện tại thuyết pháp .
Lời sớ sao rằng:
Ta bà Thích Ca hiện tại thuyết pháp tứ thập cửu niên, rày đã niết bàn, gọi là quá khứ. Tây phương Di Đà hiện tại thuyết pháp, vô lượng kiếp hằng thường diễn thuyết, gọi là hiện tại. Suốt đời chầu bên Phật, chẳng thấy kim dung, trọn ngày ngồi pháp diên, chẳng nghe diệu đạo, bèn khiến ma vương hỗn nơi Phật điện, suy pháp, quấy loạn chân tôn, dầu hay phản chiếu tâm nguyên, Phật pháp một thời lưỡng túc .
Xứng lý ắt tự tính thể tự linh tri, thật ấy kỳ độ hữu Phật nghĩa (11b). Tự tính tức kim hiển hiện, thật ấy hiện tại thuyết pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc .
Phật bảo Xá Lợi Phất, bỉ phương quốc độ sao vậy gọi làm Cực Lạc? Rằng thửa chưng quốc độ ấy, chẳng có những sự khổ, bèn chịu những sự vui, vì vậy gọi là Cực Lạc .
Lời sớ sao rằng:
Khổ là Sa bà cực khổ, chẳng được gặp Phật, chẳng được văn pháp, ác hữu khiên triền, quần ma não loạn, luân hồi lục đạo, chưa khỏi tam đồ, nghiệp tượng chướng trọng, mệnh căn xúc đoản, hằng chịu chủng chủng chư khổ, gọi là thử phương cực khổ. Lạc là Tây phương cực lạc, hoa khai kiến Phật, thân cận thánh hiền, hội thượng thiện nhân, chư Phật đều cùng hộ niệm, chẳng có tam đồ ác đạo, thọ mệnh vô lượng vô cùng, thân tâm thanh tịnh, thế giới trang nghiêm. Vì vậy gọi là bỉ phương cực lạc .
Xứng lý ắt tự tính vô nhiễm, thật ấy vô hữu chúng khổ nghĩa. Tự tính (12a) thường tịnh, thật ấy đản thọ chư lạc nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuần, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo châu tráp vi nhiễu .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Nơi cực lạc quốc độ, xứ xứ đều có thất trùng câu lan ngọc, đòi nơi đều có thất trùng bảo võng che muôn cây, đều có thất trùng hàng bảo thọ, ắt thật những tứ bảo khắp đòi lần vây nhiễu thật. Vì vậy bỉ phương quốc độ gọi là Cực Lạc”.
Lời sớ sao rằng:
Kim ngân, lưu ly, pha lê, tứ bảo lan thuần, vô lượng thất trùng làm câu lan ngoài bảo thọ, tứ bảo là võng vô lượng thất trùng che trên bảo thọ, trùng trùng thất hàng bảo thọ, cây cao tám ngàn do tuần. Cội ngọn cành lá hoa quả dưới trên cối chen chư bảo, ngũ sắc phóng quang ngàn dặm, mùi hương thơm khắp mười phương thế giới. Vì vậy gọi là Cực Lạc .
Xứng lý ắt tự tính, vạn đức tung hoành, thật ấy lan thuẫn nghĩa, tự tính (12b) bao la pháp giới, thật ấy bảo võng nghĩa, tự tính trưởng dưỡng chúng thiện, thật ấy hàng thọ nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ, kim sa bố địa .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất rằng :”Cực Lạc quốc độ có thất bảo trì, bát công đức thủy, thửa trong đìa, nước hằng đầy, dưới đáy đìa, toàn những kim sa bố địa”
Lời sớ sao rằng:
Cực lạc quốc độ, tả hữu trong ngoài, khắp thế giới vô lượng dục trì, hoặc tiểu hoặc đại, bèn đến nhẫn trăm nghìn do tuần, dường bằng biển lớn, toàn những kim ngân, lưu ly, pha lê, chân châu, xà cừ, mã não, thất bảo, thửa cùng hợp nên. Nước trong đìa, bát công đức thủy. Một là trừng tịnh trong sạch. Hai là thanh lương mát mẻ. Ba là cam mỹ ngon ngọt. Bốn là khinh nhuyễn dịu dàng. Năm là nhuận trạch nhuần nhã. Sáu là an ổn điều hoà. Bảy là trừ hết cơ khát. Tám là trưởng dưỡng chư căn. Bát công đức thủy đều cùng lợi ích chúng sanh .
(13a) Xứng lý ắt tự tính, uông danh xung dung, thật ấy bảo trì nghĩa. Tự tính tất bị nhất thiết công đức, thật ấy đức thi nghĩa .
Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành, thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não, nhi nghiêm sức chi .
Tư bề thềm bậc đường đi lại, toàn những kim ngân, lưu ly, pha lê, đều cùng hợp nên. Trên lại có lầu gác, ắt dùng những kim ngân, lưu ly, pha lê, xa xừ, xích châu, mã não trau chuốt, bèn nghiêm trang vậy .
Lời sớ sao rằng:
Trên hoàng kim địa, hết thảy trong chư báu, đều có 500 sắc, phóng hoa quang, hoá nên quang minh đài. A Di Đà Phật, giảng đường tinh xá, cung điện lầu gác, trăm nghìn muôn, đều dùng vô lượng thất bảo, thắng bội hơn nghìn muôn, trên đệ lục thiên, thiên đế sở cư. Nơi chư bồ tát trú cũng trang nghiêm như vậy. Chư thiên nhân dân, cung vũ lầu gác xứng thửa hình sắc, cao hạ đại tiểu hoặc dùng nhất bảo nhị bảo đến nhẫn vô lượng châu báu. Đôi bên lầu gác, đều có hoa phướn bảo chàng, vô lượng nhạc khí (13b) dùng làm trang nghiêm. Tám giống thanh phong đều ứng nhạc khí, diễn thuyết ra tiếng khổ không vô thường, vô ngã, hằng giải thoát vậy .
Xứng lý ắt tự tính bình trực, thật ấy giai đạo nghĩa, tự tính cao siêu, thật ấy lâu các nghĩa, tự tính cụ túc công đức pháp tài, thật ấy thất bảo nghĩa .
Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳng sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết .
Trong đĩa liên hoa, bằng đại xa luân, thanh sắc có hào quang xanh, huỳnh sắc có hào quang vàng, xích sắc có hào quang thắm, bạch sắc có hào quang sáng, thơm sạch lạ lùng .
Lời sớ sao rằng:
Trì trung liên hoa, hình như xa luân, tùy kỳ đại tiểu, hoặc là lớn một do tuần, đến nhẫn trăm nghìn do tuần, chẳng phải như bánh xe nhân gian, lớn bằng một trượng. Trong đìa liên hoa quang minh, bội hơn nhật nguyệt, mỗi nhất nhất hoa trung, phóng xuất ba mươi sáu trăm muôn ức quang minh, (14a) mỗi nhất nhất quang trung, phóng xuất ba mươi sáu muôn ức Phật. Mỗi nhất nhất Phật, phóng xuất trăm nghìn quang minh, khắp hết mười phương chúng sinh, hằng diễn thuyết diệu pháp. Hễ người tu tịnh độ vậy, dù khi lễ Phật, hiệp tưởng tự thân ở trong liên hoa làm lễ, Phật hiện trong nơi liên hoa, chịu ta lễ kính. Dầu khi niệm Phật, hiệp tưởng thân ta ở trong liên hoa, kiết già phu tọa, Phật trong liên hoa bèn tiếp dẫn ta, mới hiệp nhất tâm, trì danh niệm Phật .
Xứng lý ắt tự tính thanh tịnh quang minh, thật ấy liên hoa nghĩa .
Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Cực Lạc quốc độ, đã nên thành tựu, chân thật công đức trang nghiêm”.
Lời sớ sao rằng : Di Đà thuở làm Pháp tạng tỳ kheo, phát tứ thập bát nguyện rồi, trụ chân thật tuệ, dũng mãnh tinh tấn, đã vô trong số kiếp tu bồ tát hạnh, hằng hộ thân khẩu ý, thường hành lục độ liễu không vô tướng, vô tác, dùng làm giáo hoá, độ hết vô lượng chúng sinh, đều phát bồ đề tâm. Thật gọi rằng đại hạnh công đức. Công đức tại pháp tính trung, hằng tu (14b) vô lậu tính. Công đức đã vô lượng, nghìn muôn ức kiếp viên mãn thành tựu công đức, bèn mới nhập Phật vị .
Xứng lý ắt tự tính năng sinh vạn pháp, thật ấy trang nghiêm nghĩa .
Hựu Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Di Đà quốc độ tự nhiên hằng thường nghe tiếng thiên nhạc, dưới thì toàn những hoàng kim làm đất”.
Lời sớ sao rằng :
Trên thì thanh quang hằng mát, hoa nhạc giao huy, bội hơn đệ thất phạm thiên, tam thiền diệu lạc, muôn giống kỹ lạc, bất cổ tự minh, tự nhiên ra tiếng thanh xướng lưu lượng, hoà nhã âm thanh. Dưới thì hoàng kim làm địa, thể tánh ôn nhu, lại có kim chàng bảo cái, dùng trăm thức báu hợp nên, đôi khi hằng phóng nghìn giống quang minh, mỗi nhất quang minh lại có tám muôn bốn nghìn sắc ánh, mười phương bằng phẳng, rộng rãi chẳng có Tu di chư sơn, chẳng có hà hải khanh khảm, chẳng có chốn nào u ám, hằng phóng quang minh vô tận .
(15a) Xứng lý ắt tự tính vạn đức hoàdung, thật ấy thiên nhạc nghĩa, tự tính chân như bình đẳng, thật ấy kim địa nghĩa .
Trú dạ lục thời, ngũ thiên mạn đà la hoa .
Hoa khai hợp trong 12 giờ, trời mưa rắc xuống những thiên danh hoa .
Lời sớ sao rằng :
Tịnh độ trú dạ hằng minh, chẳng dùng nhật nguyệt, nghe xem chim kêu hoa nở, thì gọi là ngày, chim đỗ hoa hiệp, thì gọi là đêm. Hoa có hai giống. Một là thiên hoa, hai là thọ hoa. Bốn phương tự nhiên gió thổi, đều ra chủng chủng âm thanh thuyết pháp. Hoa thơm tùy phong, tán cúng chư bồ tát, hết thảy thanh văn cùng chư đại chúng. tán hoa rắc xuống kim địa dày hơn bốn tấc, hào quang sáng rỡ, mùi thơm lạ lùng. Hoa dầu khí héo, tự nhiên gió thổi không sạch, thọ hoa tán cúng lại nhiếp thiên hoa .
Xứng lý ắt tự tính khai giác, thật ấy danh hoa nghĩa .
Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y khích, thịnh chúng diệu hoa, cúng (15b1) dường tha phương, thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạm thực kinh hành .
Thửa nơi bỉ độ, chúng sunh thanh đản, sớm mai đều dùng khăn gối, bèn đựng các giống thượng diệu danh hoa, cúng dường đòi phương, mười vạn ức Phật, ắt bèn đến khi thời thực, lại về tới bổn quốc, thời trai rồi, lại đi kinh hành .
Lời sớ sao rằng :
Thanh đán là đầu sáu giờ, tịnh tâm chí kỉnh. Y kích là khăn gói thanh tịnh, đựng hoa cúng khắp mười phương ức Phật. Một Phật là một đại thiên quốc độ, tuy rằng rộng xa, đã có thần túc phi hành, nhật trung thời lại về đến bổn quốc, dầu đã vãng sanh, ắt được lục thần thông, chẳng những phi hành tự tại, dầu khi phạn thực toàn những chủng chủng bảo bát, trăm mùi ẩm thực, đều cùng sung mãn. Ăn rồi bèn lại tiêu hoá, chẳng phải đại tiểu tiện lợi, hoặc là pháp hỷ, thiền duyệt đều cùng bảo mãn, kinh hành là hằng giải thoát tiêu diêu tự tại .
Xứng lý ắt tự tính tự nghiêm, thật ấy thịnh hoa cúng dường nghĩa, tự tánh tự biến, thật ấy thập vạn ức Phật nghĩa. Tự tính tự không, thật ấy (16a) thực thời hoàn nghĩa. Tự tính tự trú, thật ấy bản quốc nghĩa. Tự tính thường định, thật ấy phạn thực nghĩa. Tự tính thường tuệ, thật ấy kinh hành nghĩa .
Xá Lợi Phất Cực Lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Cực Lạc quốc độ đã thành tựu chân thật công đức trang nghiêm”.
Lời sớ sao rằng :
Pháp Tạng tỳ kheo tu bồ tát hạnh, xưa phát nguyện rằng : Ta khi thành Phật, từ dưới nhẫn trên, đều có vô lượng trăm nghìn giống hương bèn cúng hợp nên. Lại nguyện rằng :”Khi ta thành Phật, mười phương vô ương số thế giới chư thiên nhân dân, bèn dùng đựng hoa tán cúng”. Lại nguyện rằng :”Khi ta thành Phật, trong nơi quốc độ, chư bồ tát đều dùng chủng chủng hương hoa cúng cụ, dầu muốn đến tha phương thế giới cúng dường chư Phật, bằng giây phút khá đến khắp mười phương”. Lại nguyện rằng :”Khi ta thành Phật, mọi người trong quốc độ ta, dầu khi muốn ăn chưng trong bảo bát, đủ hết trăm mùi ẩm thực hoá nên hiện tiền, ăn rồi lại biến hoá đi”. Nay đã thành Phật, nhất nhất sở nguyện đều cùng thành tựu .
(16b1) Phục thứ Xá Lợi Phất, bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hoà nhã âm, kỳ âm diễn xướng, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, như thị đẳng pháp .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Bỉ phương quốc độ, hằng có chủng chủng dị kỳ những chim nhiều thức bạch hạc cùng chim khổng tước, anh võ cùng chim xá lợi, ca lăng cùng chim tần già, bèn lại có chim cộng mệnh. Thật chư chúng điểu, trú dạ trong 12 giờ đều cùng ra tiếng hoà nhã âm thanh, diễn thuyết thông đạt, ngũ căn ngũ lực, cùng thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, bằng thật đẳng pháp, ba muơi bảy phẩm trợ đạo .
Lời sớ sao rằng :
Cực lạc quốc độ, Di Đà ứng hiển, hằng có chủng chủng dị kỳ, những chim nhiều sắc vẻ tốt. Chim bạch hạc, khổng tước thuần thiệt hay (17a) nói chân ngôn, chim anh võ, xá lợi biện tài nhiều lời diệu ngữ. Chim ca lăng tần già trổi tiếng oai âm, siêu chư quần điểu. Lại có chim cộng mạng hai đầu một thân, diễn thuyết phạn ngữ. Thật những chúng điểu trú dạ trong 12 giờ, ra tiếng âm thanh hoà nhã, diễn thuyết thông đạt ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Bằng thật đẳng pháp, 37 phẩm trợ đạo đều minh .
Xứng lý ắt tự tính biến hoá, thật ấy chúng điểu nghĩa, tự tính xuất sinh nhất thiết pháp môn, thật ấy căn lực giác đạo nghĩa .
Kỳ độ chúng sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng .
Thửa chúng sinh trong quốc độ ấy, thật nghe diệu âm diễn thuyết rồi, ắt đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng .
Lời sớ sao rằng :
Hằng nghe ca xướng kỹ nhạc, ấy quả thế gian phàm hý vô ích. Hằng niệm tam bảo là nhân hiền thánh, phước huệ lưỡng toàn, thật là lợi ích vậy. Tam bảo có ba thứ. Một là thế gian trụ trì tam bảo. Tạc hình, đúc tượng, xây tháp, tranh vẽ, sơn thếp trang nghiêm, gọi là Phật bảo (17b). Quyển vàng, quyển thắm, bìa bao ngũ sắc, gọi là pháp bảo. Tỳ kheo ngũ chúng, hoà hợp vô tranh, gọi là tăng bảo. Hai là xuất thế gian tam bảo. Tổng quát đại ý, pháp tướng tôn nghiêm, ứng hoá thị hiện, gọi là Phật bảo. Giáo hạnh lý quả, quyền dụng đa môn, gọi là pháp bảo. Tam hiền thập thánh, tứ quả tứ hướng, duyên giác bích chi, phẩm vị tuỳ thứ, gọi là tăng bảo. Ba là tối thượng tam bảo. Viên dung đại ý, tánh thể linh giác, chiếu liễu chư pháp, gọi là Phật bảo. Hằng sa đức dụng, giai khả quỉ trì, gọi là pháp bảo. Tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi, gọi là tăng bảo. Thật ấy tối thượng tam bảo .
Xứng lý ắt tự tính chân tâm nhất thể, thật ấy Phật pháp tăng nghĩa .
Xá Lợi Phất, nhữ vật vị thử điểu, thật thị tội báo sở sanh, sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo. Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt thị chư chúng điểu, giai thị A Di (18a1) Đà Phật, dục linh pháp âm, tuyên lưu biến hoá sở tác .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Mày chớ rằng chim ấy ắt thật tội báo sở sanh. Thửa bèn sao vậy? Di Đà quốc độ chẳng có tam ác đạo”. Phật bảo Xá Lợi Phất :”thửa nơi cực lạc quốc độ, còn chẳng có chưng danh ác đạo, hà huống ắt thật có chư chúng điểu, đều những A Di Đà Phật, muốn cho pháp âm tuyên diễn lưu bố, thửa bèn biến hoá, dùng làm phương tiện”.
Lời sớ sao rằng :
Cực lạc quốc độ chẳng có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng có nữ nhân cùng người khuyết căn tật bệnh, muôn kiếp chẳng từng nghe danh dữ, hà huống có chư chúng điểu? Dầu tiếng nhạc, tiếng chim, tiếng gió, tiếng nước, toàn những Di Đà biến hoá phương tiện. Khắp hết thế giới, đẳng chư nhĩ căn, hằng nghe những tiếng diệu âm diễn thuyết .
Xứng lý ắt tự tính vô tham sân si đẳng, thật ấy vô tam ác đạo nghĩa, tự tính vốn cùng như huyễn pháp môn, thật ấy biến hoá sở tác nghĩa .
Xá Lợi Phất bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo (18b) la võng, xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng chi tâm .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Di Đà quốc độ, gió vi phong thổi động các hàng cây báu, đến nhẫn chư bảo la võng đều cùng ra tiếng diệu âm, ví bằng trăm nghìn giống nhạc, khi ấy đều cùng động dụng, thật nghe những tiếng diệu âm ấy, tự nhiên đều sanh chưng lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.
Lời sớ sao rằng :
Vi phong là bát chủng thanh phong, gió thổi dịu dàng, chẳng hàn chẳng nhiệt, đượm mát thanh lương. Chư bảo hàng thọ là vô số dị chủng thành hàng vô lượng bảo thọ. La võng là dùng những thất bảo thượng diệu, thẳm cao muôn trượng trùng trùng điệp, che khắp hoà thế giới Phật đạo tràng. Thọ chủng thật trang nghiêm, vi phong hàng động, bèn ra vô lượng âm thanh, đều cùng diễn thuyết diệu pháp, chúng sinh đều hiểu biết vô sinh pháp nhẫn, hằng trụ bất thối chuyển, đều được thành tựu vô thượng bồ đề .
Xứng lý ắt tự tính lý trí giao dung, thật ấy phong thọ nghĩa .
(19a) Xá Lợi Phất, kỳ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm .
Phật bảo Xá lợi Phất :”thửa nơi Di Đà quốc độ, đã thành tựu chân thật công đức trang nghiêm”.
Lời sớ sao rằng :
Hóa cầm phong thọ, chủng chủng trang nghiêm, đều bởi Phật nhân địa, nguyện hành chư công đức, bèn thành tựu vậy .
Xứng lý ắt tự tính bát nhã châu biến pháp giới, thật ấy điểu thọ thuyết pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, ư nhữ ý vân hà, bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà?
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Chưng ý mày rằng sao bỉ phương Phật ấy, nhân nào vậy, hiệu là A Di Đà?”
Lời sớ sao rằng :
Một quyển kinh này, Di Đà Phật, thật làm chánh chủ. Vì vậy tua phải thẩm vấn A Di Đà Phật là tứ tự hồng danh, thành tựu vạn đức, thửa nghĩa sâu rộng, hợp vì mở bảo, khiến người người đều minh sự lý trì danh niệm Phật, cầu vãng sanh vậy .
(19b1) Xứng lý ắt tự tính chánh tư duy, ắt thật ở ý vân hà nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ Phật quang minh vô lượng chiếu thập phương ức vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di Đà .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Di Đà Phật quang minh vô lượng, soi khắp mười phương quốc độ, nào đâu thửa chướng ngại, thật vì vậy hiệu là A Di Đà”.
Lời sớ sao rằng :
Thật quang minh thọ mạng đều vô lượng vậy. Một là trí quang. Hai là thân quang. Một là nhân tín hạnh công đức thành tựu. Hai là nhân bản nguyện quả mãn thành tựu. Lại rằng, Di Đà Phật đại phóng quang minh, bội hơn trăm ức ba ngàn đại thiên thế giới. Lại có tám muôn bốn ngàn diệu tướng. Nhất nhất tướng trung, lại có tám muôn bốn ngàn tùy hình hảo. Nhất nhất hảo trung, lại có tám muôn bốn ngàn quang minh soi khắp mười phương thế giới. Hết thảy chúng sinh niệm Phật, Phật đều tiếp dẫn chẳng bỏ. Lại rằng : Một Phật Di Đà quang minh, soi khắp 10 phương thế giới vô cùng vô tận, vì vậy hiệu là vô lượng quang .
(20a1) Hựu Xá lợi Phất, bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, cố danh A Di Đà .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Bỉ Phật thọ mạng cùng thửa nhân dân vô lượng vô biên vô ương số kiếp, vì vậy gọi là A Di Đà”
Lời sớ sao rằng :
Phật thọ, một là pháp thọ, phi thọ phi bất thọ, phi thỉ phi chung là pháp thân thọ vậy. Hai là báo thọ, nhất đắc vĩnh đắc, hữu thỉ vô chung , ấy là báo thân thọ. Ba là ứng thọ, thị đồng sinh diệt, hữu thỉ hữu chung, ấy là ứng thân thọ vậy. Lại rằng pháp thân lấy như lý làm mạng, báo thân dùng trí tuệ làm mạng, ứng thân tùy nhân duyên làm mạng. Lại rằng, nhân dân nhờ Phật, nhân bổn nguyện lực, đều được thọ mạng, vô lượng vô biên, vô ương số kiếp vậy .
Xứng lý ắt tự tính thường chiếu, thật ấy quang minh nghĩa. Tự tánh thường tịch, thật ấy thọ mạng nghĩa. Tự tính tịch chiếu bất nhị, thật ấy A Di Đà nghĩa .
Xá Lợi Phất, A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp .
Phật bảo Xá (20b) Lợi Phất :”A Di Đà Phật tự thành Phật đến nhẫn nay kể đã được 10 đại kiếp”.
Lời sớ sao rằng :
Thành kiếp 20 lần tăng giảm. Trụ kiếp 20 lần tăng giảm. Hoại kiếp 20 lần tăng giảm. Không kiếp 20 lần tăng giảm. Tám mươi lần tăng giảm là một đại kiếp. 10 lần đại kiếp là 800 tiểu kiếp vậy .
Xứng lý ắt bản lai thành Phật, thật là thập kiếp nghĩa .
Hưụ Xá Lợi Phất, bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử, giai A la hán, phi thị toán số, chi sở năng tri. Chư Bồ tát chúng, diệc phục như thị .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Di Đà có vô lượng vô biên Thinh văn đệ tử, đều những bậc A la hán, thật khôn toán kế, bèn thửa hay biết. Chư Bồ tát chúng, ắt thật lại nhiều như vậy”.
Lời sớ sao rằng :
Trước cử thinh văn, sau cử bồ tát, đều minh thửa hiền (21a) thánh vậy. Thinh văn nghe tứ thánh đế , nguyện hữu thâm thiển, bèn có tam quả A la hán toàn những tứ quả. Giả sử thinh văn tỳ kheo, mãn trăm ngàn muôn ức vô ương số, khôn hay kể xiết vậy. A la hán đã rồi hết chư lậu. Những bậc lòng bền kiên cố chẳng động, như Tu di sơn, lòng trí sáng biết, như nhật nguyệt minh, lòng quảng đại dường bằng biển lớn, sinh ra chủng chủng công đức vô lượng vô biên, ắt chư bồ tát đương lai đều được thành Phật. Vì vậy rằng nhất sinh bổ xứ .
Xứng lý ắt tự tính tức không tức giả, thật ấy Phật hữu thinh văn bồ tát nghĩa .
Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá Lợi Phất, cực lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị a bệ bạt trí .
Phật lại bảo Xá Lợi Phất :” Di Đà quốc độ, hạnh nguyện đã thành tựu, thật như dường ấy, công đức trang nghiêm”. Phật lại bảo Xá Lợi Phất :”Chúng sinh vãng sinh tịnh (21b) độ, ắt thật đều nên chẳng còn thối chuyển”.
Lời sớ sao rằng :
Từ Chiếu tông chủ, lập đồ diễn thuyết tứ độ, những thứ chưa rồi phiền não, vãng sinh đồng cư độ, gọi là nguyện bất thối. Phá hết tà kiến tà tư, vãng sinh phương tiện độ, gọi là hạnh bất thối. Phá trần sa vô minh, vãng sinh Thật báo độ gọi là trí bất thối. Phá tam hoặc tịnh tận, vãng sinh Tịch quang độ, gọi là vị bất thối. Tuy bất thối, danh đồng, bèn thâm thiển có khác .
Xứng lý ắt tự tính thường trụ, thật ấy bất thối nghĩa .
Kỳ trung đa hữu, nhất sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp .
Thửa trong quốc độ ấy, có nhiều bồ tát quyết vãng sinh. Lại tua bổ xứ, thửa kể cực nhiều, ắt thật khôn toán kế, thửa hay xiết vậy, bèn dầu khả thuyết, vô lượng vô biên vô ương số .
Lời sớ sao rằng :
Vãng sinh bỉ quốc, há những dự bất thối, lại có bổ (22a) xứ bồ tát khôn khá kể xiết, hằng khuyên cầu vãng sinh vậy. Bổ xứ ấy, những quyết vãng sinh, lại tua bổ Phật vị ắt thật những đẳng giác bồ tát vậy. Nhất sinh bổ xứ, là chư bồ tát chí nguyện vãng sinh, đều được tam thập nhị tướng, thâm nhập diệu pháp, tua bổ Phật vị. Như Phật là Hộ Minh thuở trước, Di Lặc thuở sau, tua bổ Phật vị. Dường bằng Thái tử đông cung, thật ấy thiệu truyền đế vị .
Xứng lý ắt tự tính quyết định thành Phật, thật ấy nhất sinh bổ xứ nghĩa .
Xá Lợi Phất, chúng sinh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
Phật bảo Xá lợi Phất :”Chúng sinh nghe tin vậy, chỉnh hợp phát nguyện, nguyện cầu vãng sinh tịnh độ”.
Lời sớ sao rằng :
Khuyên tín khuyên nguyện có 4 thứ . Một là nghe diễn thuyết vãng sinh, được thân tâm thế giới thanh tịnh, bèn phát tín nguyện vậy. Hai là nghe diễn thuyết dùng nhất tâm trì danh, quyết định ắt được vãng sinh, bèn phát tín nguyện vậy. Ba là nghe kinh diễn thuyết, rằng trì danh niệm Phật, Phật ắt hộ niệm, đều được bất thối bồ đề, bèn phát tín nguyện vậy. Bốn là nghe (22b) kinh thuyết, có tín có nguyện, muôn người niệm, muôn người vãng sinh, bèn phát nguyện vậy .
Xứng lý ắt tự tính hoàn quy bản thể, thật ấy nguyện sanh bỉ quốc nghĩa .
Sở dĩ giả hà đắc, dữ như thị, chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ .
Thửa bèn sao vậy? Cũng được thật như dường ấy. Những dự chư thượng thiện nhân cùng hợp một chốn .
Lời sớ sao rằng :
Chẳng những nhân trung chi thiện , lại có thinh văn bồ tát cùng dự tua bổ xứ, quyết định vãng sinh, đều cùng hội họp nhất xứ. Thửa rằng Quán Âm Thế Chí, dang tay cùng đi, Văn Thù Phổ Hiển đều làm thân thắng thiện hữu.
Xứng lý ắt vạn thiện đồng qui, thật ấy đồng hội nhất xứ nghĩa.
Xá Lợi Phất, bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.
(23a) Phật lại bảo Xá Lợi Phất : “chẳng khá rằng lấy thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, mà được vãng sinh bỉ quốc.”
Lời sớ sao rằng:
A Di Đà Phật là vô thượng bồ đề. Kinh này dạy trì danh là ắt thật hồi hướng vô thượng bồ đề. Di Đà đã thành tựu vạn đức, dầu cử một danh, muôn đức đều viên, sức dùng trì niệm, tự nhiên chư ác chẳng sinh, chư thiện phụng hành ắt thật phúc trung chi phúc, ấy là đa phúc vậy.
Xứng lý ắt tự tính xuất sinh nhất thiết phát, thật ấy thiện căn nghĩa, tự tính phú hữu nhất thiết pháp, thật ấy phúc đức nghĩa.
Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân,văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn.
Phật bảo Xá Lợi Phất: “dầu có người thiện nam (23b) tử, người thiện nữ nhân, nghe thuyết A Di Đà Phật, chuyên trì niệm danh hiệu, dầu một ngày, dầu hai ngày, dầu ba ngày, dầu bốn ngày, dầu năm ngày, dầu sáu ngày, đến nhẫn bảy ngày, nhất tâm niệm Phật, lòng chẳng tán loạn”.
Lời sớ sao rằng:
Di Đà danh hiệu, thật là tiêu niệm cảnh, chấp trì nhất tâm, thật là minh niệm pháp. Nhất nhật chí thất nhật, thật là khắc niệm kỳ. Chấp trì danh hiệu, quyết trí vãng sanh, ấy là sự nhất tâm. Niệm niệm hằng minh thật tướng, ấy là lý nhất tâm. Một lòng tín nguyện niệm Phật, chẳng có tạp tưởng nghi hối, ấy là bất loạn .
Xứng lý ắt tự tính phi ức phi vọng, thật ấy chấp trì nghĩa. Phi kim phi tạp thật ấy thất nhật nghĩa. Phi nhất phi đa thật ấy nhất tâm nghĩa. Phi định phi loạn thật ấy bất loạn nghĩa .
Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật vị chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền .
Thửa người ấy chưng khi lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật cùng chư thánh chúng, ứng thân hiện tiền, thửa nơi trước mặt .
(24a) Lời sớ sao rằng:
Nước thanh trong sạch, ắt nguyệt bèn đến. Lòng thanh tịnh, ắt Phật bèn hiện. Thửa rằng cảm ứng đạo giao, khôn tư nghì vậy .
Xứng lý ắt tự tính vọng cùng, chân lộ, thật là nghĩa lâm chung Phật hiện .
Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật, cực lạc quốc độ .
Thật người ấy khi lâm mạng chung thời, lòng chẳng điên đảo, ắt được vãng sinh A Di Đà Phật cực lạc quốc độ.
Lời sớ sao rằng:
Bởi thuở bình nhật, tùy thuận vọng tưởng, chẳng tu chính niệm, lòng nhiều tán loạn, gọi là điên đảo. Rày đã nhất tâm bất loạn, trong ắt kiên trì chính niệm, ngoài bèn Phật cảm lai nghênh như lời Phật thuyết, tùy thửa tâm tịnh, ắt Phật độ tịnh, nhất niệm chính tưởng thành tựu, ắt được vãng sinh, chẳng còn nghi vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô hình, thật ấy bất điên đảo nghĩa, tự tính vô cấu, thật âý sinh cực lạc nghĩa .
Xá Lợi Phất, ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Ta thấy thật lợi ích, vì vậy diễn thuyết lời ấy. Dầu có chúng sinh nghe thuyết thật như vậy, chỉnh hợp phát nguyện, cầu vãng sinh bỉ quốc tịnh độ”.
Lời sớ sao rằng:
Nhất tâm trì niệm Phật danh, Phật đến tiếp dẫn, bèn được vãng sinh thật là tự lợi. Sinh tịnh độ rồi, liền được văn pháp ngộ đạo, hoàn lai tam giới, rộng độ vô lượng chúng sinh, thật là lợi tha. Tự tha câu lợi thật là thị lợi .
Xứng lý ắt tự tính cụ túc, thật ấy thị lợi nghĩa .
Xá Lợi Phất, như ngã kim giả tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức chi lợi .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”bằng ta nay vậy, tán thán A Di Đà Phật, khôn khả tư nghì, chưng công đức âý, thật đại lợi (25a) ích”.
Lời sớ sao rằng:
Tán là lời tán thán xưng dương. Di Đà thậm mỹ quảng đại công đức, người người đều quy tín vậy. Thán là cảm kích thâm thiết, pháp ấy trong nhân thiên, họa có lịch kiếp nhân duyên, bèn mới được gặp, khôn khá tư nghì vậy .
Xứng lý ắt tự tính ly tâm ngôn tướng, thật ấy bất khả tư nghì công đức nghĩa .
Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật. Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng hằng ha sa số chư Phật .
Đông phương ắt có A Số Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật cùng Đại Tu Di Phật với Tu Di Quang Phật cùng Diệu Âm Phật, thật bằng các đấng chư Phật hằng hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Chư Phật đều tán thán vậy, thấy tịnh độ pháp môn ngàn muôn vô lượng chư Phật dị khẩu đồng âm, cùng thửa tán thán, bèn hợp tín (25b) chớ nghi vậy .
Hễ cữ 10 phương, lấy đông phương làm đầu. Bốn mùa lấy xuân làm trước, muôn vật sinh trưởng là trí tuệ nghĩa. muôn pháp dùng trí tuệ làm đạo sư, vì vậy cử đông phương trước. Ắt như Văn Thù, Xá Lợi làm thầy đại chúng. Đông phương A Súc Phật là pháp thân bất động vậy. Tu Di Tướng Phật là tướng hảo cao diệu, bách phước thành tựu, chúng bảo đều cụ túc vậy. Đại Tu Di là Phật đức cao rộng khỏi hết quần phẩm chư danh sơn vậy. Tu Di Quang Phật là Phật thân hằng phóng quang, chiếu sáng soi khắp hết quần phương vậy. Diệu Âm Phật là pháp âm viên diệu đệ nhất, tùy cơ diễn thuyết, chúng sinh đều thì liễu ngộ vậy .
Hằng hà là ở Tây vức trên đảnh Hương sơn, có Vô nhiệt não trì, lưu xuất tứ hà. Mỗi hà rộng 40 dặm lấy làm tỉ dụ .
Xứng lý ắt tự tính trí tuệ bất khả tận, thật ấy đông phương hằng sa Phật nghĩa .
(26a1) Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Chưng thửa nơi chư Phật quốc độ đều phóng thiệt tướng ra, dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên thế giới .
Lời sớ sao rằng:
Nhân bởi khẩu nghiệp thanh tịnh, chưa từng vọng ngôn ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác mạ, hằng chân thật ngữ, hằng chánh trực ngữ, hằng nhu nhuyễn hoà hợp ngữ. Phật đã vô lượng kiếp nhẫn nay chưa từng vọng ngữ, tích nhiều công đức, bèn được cảm quả trường thiệt tướng, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Một tứ đại bộ châu là một nhật nguyệt. Một non Tu Di gọi là tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới gọi là tiểu thiên. Một ngàn tiểu thiên gọi là trung thiên. Một ngàn trung thiên gọi là đại thiên. Ba ngàn đại thiên thế giới, làm một Phật quốc độ vậy .
Xứng lý ắt tự tính chân biến pháp giới, thật ấy quãng trường thiệt nghĩa .
Thuyết thành thật ngôn, nhữ đẳng chúng sinh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì (26b1) công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật pho ngươi đẳng chư chúng sinh, hợp tín thật xưng dương tán thán, khôn khả tư nghì công đức, hết thảy chư Phật đều hộ niệm kinh .
Lời sớ sao rằng:
Hộ niệm là những người niệm Phật, sức Phật phò trì bảo hộ, khiến được an ổn, khỏi hết chướng nạn vậy. Lòng Phật hằng hộ niệm, khiến thửa tinh tấn, chẳng còn thối chuyển vậy. Những người niệm Phật, Phật hằng thường trụ, ứng hiển trên đầu, lại được nhiều sự ích lợi. Những người niệm Phật, Di Đà hằng phóng quang minh, nhiếp thọ người ấy. Bổn Sư Thích Ca cùng 10 phương chư Phật, cùng hộ niệm người ấy. Hợp hay người niệm Phật, Phật hằng hộ niệm, cảm ứng tự nhiên, thật chẳng phải cuống hoặc vậy .
Xứng lý ắt tự tính bất biến, ấy là thành thật nghĩa, tự tính bất ly, thật ắt hộ niệm nghĩa .
Xá Lợi Phất, Nam phương thế giới hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại (27a1) Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Nam phương thế giới có nhật nguyệt Đăng Phật cùng Danh Văn Quang Phật, có Đại Diệm Kiên Phật cùng Tu Di Đăng Phật, lại có Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Thật bằng các đấng chư Phật, hằng hà sa số”.
Lời sớ sao rằng:
Nhật Nguyệt Đăng Phật là đại trí vô tận. Nhật thời sáng soi ban ngày. Nguyệt thời sáng soi ban đêm. Đăng thời quang chiếu những nơi nhật nguyệt chẵng soi đến, là bát nhã viên quang nhất thiết chủng trí vậy. Danh Văn Quang Phật là danh xưng phổ văn, như sáng soi xa, danh nghe khắp hết mười phương vô lượng thế giới, dường bằng huệ nhật quang minh, nào đâu chẳng khắp vậy. Đại Diệm Kiên Phật là quyền thật nhị trí quang minh, dường bằng hai vai chiếu diệu, quyền trí hằng thường chiếu sự, thật trí hằng thường chiếu lý. Sự lý phân minh, song chiếu bất muội, hà đảm hết thảy Phật pháp vậy .
Tu Di Đăng Phật là thân trường tám muôn bốn ngàn do tuần, Phật dùng trong (27b1) đạo đại trí sáng soi khắp hết hằng sa thế giới, quảng độ chúng sinh, trí quang cao viễn như Tu Di sơn vậy .
Vô Lượng Tinh Tấn Phật là tinh tấn kiến giải vậy. Một là mọi thời tinh tấn vô lượng. Hai là đẳng sự tinh tấn vô lượng, tự lợi lợi tha, trí hạnh vô biên vậy .
Xứng lý ắt tự tính quang minh vô tận, thật ấy nam phương, hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Điều chưng thửa nơi chư Phật quốc độ, phóng thiệt tướng dài rộng, che khắp ba nghìn đại thiên thế giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Lời diễn thuyết chân thật:”pho ngươi các đấng chúng sinh hiệp tín thật (28a) xưng dương tán thán khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật thửa đều hộ niệm kinh .
Xá Lợi Phất, Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Tây phương thế giới có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, lại có Vô Lượng Tràng Phật cùng Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, bằng thật các đấng chư Phật hằng hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Vô Lượng Thọ Phật là Cực Lạc thế giới có tam thập lục vạn ức, lại có nhất thập nhất vạn chín ngàn năm trăm đồng danh đồng hiện A Di Đà là Vô Lượng Thọ vậy. Vô Lượng Tướng Phật là tướng hảo vô tận, hoặc ứng 32 tướng hảo, hoặc hiện tám muôn bốn ngàn tướng hảo, hoặc ứng hoá vi trần tướng hảo, phước đức vô lượng, tướng hảo vô lượng vậy .
(28b) Vô Lượng Tràng Phật là công đức chí tôn, dụ như tràng phan, trật phẩm cao hiển siêu việt, là vô lượng quảng đa vậy .
Đại Quang Phật là quang huy quảng chiếu vậy. Phật thân hằng hiển hiện quang minh, chẳng phải mượn nhật nguyệt, hằng soi sáng khắp hết 10 phương. Vì vậy danh là Đại Quang. Đại Minh Phật là đại trí thường minh, phá rối hết chư hoặc vậy, dùng nhất thiết trí phá hết kiến tư hoặc, dùng đạo chủng trí phá hết trần sa hoặc, dùng nhất thiết chủng trí phá hết vô minh hoặc, dường bằng cảo nhật đương không, nào đâu chẳng quán chiếu, vì vậy danh là Đại Minh Phật.
Bảo Tướng Phật là tướng hảo thù diệu, như vô thượng bảo tôn quý vậy. Dùng nhất mắt có tám muôn bốn ngàn thanh tịnh bảo mục. Mục hào tướng như lưu ly, hằng phóng quang. Nương long dường bằng tử kim sắc. Nhục kế tướng như ngọc Chân Thúc ca. Vì vậy danh là Bảo Tướng. Tịnh Quang Phật là Phật đức thanh tịnh, hằng phát quang minh vậy, dường bằng kính thanh tịnh soi khắp muôn hình, hằng sáng thanh tịnh. Vì vậy danh là Tịnh Quang .
Xứng lý ắt tự tính thanh tịnh bất khả tận, thật ấy Tây phương hằng sa (29a) Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa chưng nơi chư quốc độ, phóng thiệt tướng ra dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên thế giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Lời diễn thuyết chân thật :”pho ngươi các đấng chúng sinh hợp tin thật xưng dương tán thán khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh”.
Xá Lợi Phất, Bắc phương thế giới Hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Am Phật, Nan Thư Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật.
Phật bảo (29b1) Xá Lợi Phất:”Bắc phương thế giới có Diệm Kiên Phật, tối thắng âm Phật, lại có Nan Trở Phật, Nhật Sinh Phật cùng Võng Minh Phật, bằng thật các đấng chư Phật hằng hà sa số .
Lời sớ sao rằng:
Diệm Kiên Phật là lời trước đã giải, tuy Phật trước có đại tự, song le nghĩa chẳng khác vậy .
Tối Thắng Âm Phật là cực diệu hảo âm thanh, dầu nhân thiên nhị thừa bồ tát, hết thảy âm thanh đều chẳng kịp vậy. Bát âm gồm no. Vì vậy danh là Tối Thắng .
Nan Thư Phật là Phật đức kiên mật khôn hoại được vậy, đã chứng pháp thân, được kim cang bất hoại thể, trần sa não hoặc khôn hay ác chỉ ngăn trở được, vì vậy danh là Nan Thư .
Nhật sinh Phật là Phật quang xuất hiện, sướng bằng Nhật xuất cao thăng vậy. Như chư Phật thành tựu chánh giác, thuyết pháp lợi sinh, tuệ quang phổ chiếu, chẳng khác nhật sinh đông phương vậy .
Võng Minh Phật là đại trí như bão võng, ngàn thức ngọc giao ánh quang minh thấu suốt, Phật trí che khắp chúng sinh, nào đâu chẳng soi vậy, hết thảy chủng (30a1) chủng pháp môn, đều cùng dung thông, giác hết quần mê gọi là Võng Minh .
Xứng lý ắt tự tính hàm nhiếp vô tận, thật ấy bắc phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa nơi chư Phật quốc độ, phóng thiệt ra tướng dài rộng che khắp ba ngàn đại thiên thế giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật ngữ:”pho ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật xưng dương tán thán, khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh”.
Xá Lợi Phất, Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật (30b1), Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Hạ phương thế giới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật cùng Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật lại có Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, bằng thật các đấng chư Phật hằng hà sa số”.
Sư tử có nhị nghĩa. Một là làm vương chư thú, du hành tự tại. Như Phật, hết thảy phàm thánh tôn kính, vào ra tam giới, tự tại vô ngại. Hai là oai âm, chúng thú kinh sợ. Như Phật thuyết pháp, thiên ma ngoại đạo, đều cùng tín phục. Vì vậy danh là Sư Tử .
Danh Văn Phật là vô lượng pháp môn, hà sa diệu đức, thế giới đều cùng hay danh, gọi là Danh Văn Phật .
Danh Quang Phật là danh sáng như nhật quang, nào đâu chẳng sáng khắp, chúng sinh đều cùng ngưỡng vọng, tiêu danh hiển quang, gọi là Danh Quang Phật .
Đạt Ma thử phương là đặt pháp vậy, ắt kiêm lưỡng lợi. Một là dùng pháp quỷ trì, kỷ đức thành tựu pháp thân, hai là dụng pháp quý trì, giáo tha khiến hết chúng sinh, đều chứng pháp thân gọi là Đạt Ma Phật .
(13a1) Pháp Tràng Phật là Phật pháp cao hiển vậy, nhân thiên kính ngưỡng, lấy làm tôn chủ, tà ngoại khâm vọng, đều cùng hàng phục như vô lượng tràng, danh gọi làm Pháp Chàng Phật .
Trì Pháp Phật kiêm hữu nhị nghĩa. Một là chấp trung danh trì, hai là chấp thủ danh trì, chẳng trụy lững biên, hằng giữ trung đạo, gọi là Trì Pháp Phật .
Xứng lý ắt lượng chi di thâm, bất khả cùng tận, thật là hạ phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Đều thửa chưng chư Phật quốc độ phóng thiệt tướng ra dài rộng, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghì công đức nhiết chư phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật:”pho ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật (31b) xưng dương tán thán khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh”.
Xá Lợi Phất, Thượng phương thế giới hữu Phạm Am Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật .
Phật bảo Xá Lợi Phất :”Thượng phương thế giới có Phạm Am Phật, Tú Vương Phật cùng Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, lại có Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật cùng Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, lại có Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Bằng thật các đấng chư Phật hằng hà sa số”.
Phạm Âm là Phật âm thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm vậy. Phật hằng dụng nhất thừa pháp, hoá đạo chúng sinh, gọi là thuần nhất bất tạp, (32a) cụ túc thanh bạch phạm hạnh, vì vậy danh là Phạm Âm .
Tú Vương, ấy là chân nguyệt, vạn điểm tinh quang bất như nhất nguyệt, chân nguyệt dụ làm đại giác, siêu xuất quần mê, chúng sinh đều cùng quy ngưỡng, vì vậy gọi làm Tú Vương .
Hương Thượng là thánh trong thánh, như hương trong hương, tối thượng vô tỉ, Phật chứng ngũ nhận pháp thân, hương xông vô lượng thế giới, ngũ phận siêu xuất nhân thiên nhị thừa chi hương vậy, gọi làm Hương Thượng Phật .
Hương Quang là hương trung phát quang, gồm no đoạn trí nhị đức vậy. Hương hay trừ ác khử uế, đều cùng tịnh tận trí đức. Quang là trí huệ quang chiếu tuyệt chư si ám. Vì vậy danh là Hương Quang .
Đại Diệm Kiên, nghĩa như Phật trước đồng danh hiệu, vô lượng vô biên vậy .
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân là vạn hạnh trang nghiêm pháp thân vậy. Phật là nhất thiết chủng trí, gồm no lục độ vạn hạnh, dường bằng muôn giống bảo hoa trang nghiêm pháp thân vậy. Sa La Thọ Vương là kiên cố tối thắng, tam giới độc tôn, như thọ vương vậy. Phật là chúng thánh trung vương gọi là Thọ Vương .
(32b) Bảo Hoa Đức, lấy hoa dụ đức Phật thì phú hữu vạn đức, quý trọng thiên hoa, tôn vinh quý trọng danh Bảo Hoa Đức Phật .
Kiến Nhất Thiết Nghĩa là hết thảy thế gian, dầu xuất thế gian vô lượng chư pháp diệu nghĩa, đều cùng thông vậy, danh là Nhất Thiết Nghĩa Phật .
Như Tu Di Sơn là chúng sơn chi vương, Phật đức siêu việt dường bằng tu Di vậy. Vạn đức giao la chúng bảo hợp thành, Tu Di là vương chúng sơn, Như lai làm vương tam giới. Vì vậy danh xưng Tu Di Sơn Vương Phật .
Xứng lý ắt tự tính ngưỡng chi di cao bất khả tận, thật ấy thượng phương hằng sa Phật nghĩa .
Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới .
Điều chưng thửa chư Phật quốc độ phóng thiệt tướng ra dài rộng, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới .
Thuyết thành thiệt ngôn, nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị (33a) công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Diễn thuyết lời chân thật:”Pho ngươi các đấng chúng sinh, hợp tin thật xưng dương tán thán khôn khả tư nghị công đức, hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh”.
Lời sớ sao rằng:
Tự trước lục phương chư Phật tán thán, ắt thật Di Đà sức bản nguyện vậy. Kinh Đại bản rằng: Thửa Di Đà còn làm Pháp Tạng tỳ kheo, lời phát nguyện rằng :”Ngã tác Phật thời, danh nghe khắp 10 phương, vô ương số thế giới, xưng tán Di Đà, khắp chưng các chư quốc độ”. Nay Di Đà thành Phật, lại như thửa lời nguyện .
Xứng lý ắt tự tính biến chiếu, thật ấy lục phương Phật tán nghĩa .
Xá Lợi Phất, ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Chưng ý mày rằng sao? nhân nào vậy gọi là hết thảy chư Phật sở hộ niệm kinh?”.
Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh thọ trì giả (33b1) cập văn chư Phật danh giả .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Dầu có người thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe Di Đà kinh thọ trì vậy, bèn đến nhẫn nghe chư Phật danh vậy”.
Lời sớ sao rằng:
Văn ắt là văn tuệ, tư ắt là tư tuệ, tu ắt là tu tuệ. Văn là tín nghĩa, thọ là nguyện nghĩa, trì là hành nghĩa .
Xứng lý ắt tự tính tự quỹ ắt thật ấy văn thử nghĩa, tự tính tự giác, thật ấy văn chư Phật danh nghĩa .
Thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư A nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Dầu thật những người thiện nam tử, thiện nữ nhân, hết thảy chư Phật, bèn thửa đều cùng hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển, chưng vô thượng bồ đề thành đẳng chánh giác”.
Lời sớ sao rằng:
Thập căng già sa là vô ương số, chư Phật bèn thửa (34a) nhiếp thọ chẳng những sáu phương một hằng hà sa vậy. Lời Phạm ngữ : A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hoa ngôn là vô thượng chánh đẳng chánh giác vậy. Linh linh độc chiếu liễu liễu thường tri, chưa từng tăng giảm, chẳng có đắc thất, bồ đề ắt thật ta, ta ắt thật bồ đề, còn chẳng có tiến, hà huống có thối .
Xứng lý ắt tự tính thường giác, thật ấy bất thối nghĩa .
Thị cố Xá Lợi Phất, nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Chúng ngươi đều hợp tin vâng lời ta cùng chư Phật thửa diễn thuyết”.
Lời sớ sao rằng:
Giai đương tín thọ, thật là đệ tam trùng khuyến. Tín hành nguyện, ba sự chẳng khá khuyết một. Tín là tin Di Đà bản nguyện, Thích Ca diễn thuyết, lục phương tán thán. Hạnh là tinh tấn chuyên cần, trì niệm danh hiệu, một lòng hằng nhớ, chẳng khi tán loạn. Nguyện là nguyện vãng sinh tịnh độ, chẳng còn thối chuyển, kíp nên vô thượng bồ đề. Tín, hạnh, nguyện ba sự chẳng khá khuyết nhất. Ngàn người tin niệm, ngàn người vãng sinh, muôn người tin niệm, muôn người (34b) đều được vãng sinh. Hằng tin niệm danh hiệu Phật, lòng hằng ức tưởng Phật, miệng hằng niệm Phật, thân hằng kính Phật, mới gọi là thâm tín tâm, lấy làm thiết yếu vậy.
Xứng lý ắt tự tính bản lai thị Phật, thật ấy tín thọ nghĩa .
Xá Lợi Phất, nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai bất đắc thối chuyển ư A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”dầu có người quá khứ thế đã phát nguyện, hoặc hiện tại thế này phát nguyện, hoặc vị lai thế hợp phát nguyện, muốn vãng sinh A Di Đà Phật quốc độ vậy, thật các đấng chư nhân đều được bất thối chuyển chưng vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác, chưng nơi bỉ phương quốc độ, dầu quá khứ đã vãng sinh, hoặc hiện tại nay vãng sinh, hoặc vị lai hợp vãng sinh”.
(35a) Lời sớ sao rằng :
Dĩ nguyện dĩ sinh là rằng những người thửa trước nguyện cầu đã được vãng sinh vậy. Kim nguyện kim sinh, những người thửa khi Phật trú thế, một lòng nguyện cầu được vãng sanh vậy. Đương nguyện đương sinh, là những người nghe thuyết kinh rồi, một lòng tin nguyện cầu, đều được vãng sinh vậy .
Xứng lý ắt tự tính phi khứ lai kim, thật ấy dĩ sinh, kim sinh, đương sinh nghĩa .
Thị cố Xá Lợi Phất, chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”Thật vì vậy, những người thiện nam tử, thiện nữ nhân, dầu có tin vậy, chỉn hợp phát nguyện, nguyện sinh bỉ phương cực lạc quốc độ”.
Lời sớ sao rằng :
Dầu có nguyện ắt được vãng sinh, tùy nhân cảm quả vậy. Dại thay chẳng tin, dầu tin ắt lại nguyện vậy, nào ai chẳng được vãng sinh. Văn Thù làm thầy chúng tín, cụ túc nhất tâm. Phổ Hiền làm vương chư nguyện, bất ly đương niệm .
Xứng lý ắt tự tính như trí minh khế, thật ấy tín nguyện song thành nghĩa .
(35b) Xá Lợi Phất, như ngã kim giả xưng tán chư phật bất khả tư nghị công đức.
Phật bảo Xá Lợi Phất:”bằng ta nay vậy, xưng dương tán thán chư Phật khôn khả tư nghị công đức”.
Lời sớ sao rằng :
Dầu xưng dương tán thán vô lượng thọ Phật, ấy là lời tán thán chư Phật. Di Đà với chư Phật cùng đồng một pháp thân vậy. Thích Ca cùng chư Phật tán thán Di Đà khôn khá tư nghị công đức, ắt đã thuận thửa lời kinh văn, đồng nhất pháp thân chi nghĩa .
Bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị ngôn :Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan y hữu chi sự, năng ư Ta bà quốc độ, ngũ trược ác thế, kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề .
Các phương chư Phật đẳng, ắt đều xưng dương tán thán (36a) ta khôn khả tư nghị công đức, bèn làm phương tiện lời chân thật diễn thuyết : Thích Ca Mâu Ni Phật hay diệu dụng những sự thậm nan hy hữu, chưng nơi Ta bà quốc độ, thời ngũ trược ác thế, một là mạt vận trần cấu chẳng thanh, hai là suy kiến điên đảo chẳng thanh, ba là phiền não xí thạnh chẳng thanh, bốn là chúng sinh nghiệp chướng chẳng thanh, năm là suy mệnh xúc đoản trần khổ nhiễu loạn chẳng thanh. Trong nơi ngũ trọc, được chứng nên vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác .
Lời sớ sao rằng :
Kiếp trược là mạt vận trần cấu chẳng thanh vậy. Kiến trược là suy kiến điên đảo chẳng thanh vậy. Phiền não trược là tham sân si phiền não chẳng thanh vậy. Chúng sinh trược là luân hồi lục đạo nghiệp chướng chẳng thanh vậy. Mạng trược là suy mạng súc đoản, chư khổ triền phược chẳng thanh vậy .
Xứng lý ắt tự tính thỉ giác minh hộ bản giác, thật ấy tán chư Phật nghĩa. Bản giác minh hồ thỉ giác, thật ấy tán ngã nghĩa. Tự tính tịch nhi thường chiếu, chiếu nhi thường tịch, thật ấy Thích Ca Mâu Ni nghĩa. Tự tính nhiễm nhi bất nhiễm, bất nhiễm nhi nhiễm, thật ấy ngũ trược bồ đề nghĩa .
(36b) Vị chư chúng sanh, thuyết nhị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp .
Vì chư chúng sinh, thật diễn thuyết hết thảy thế gian bèn chưng pháp khôn tin .
Lời sớ sao rằng :
Nguồn cơn cửa pháp tịnh độ, hết thảy thế gian bèn thửa không tin. Một là ở phương uế độ, nhiều kiếp tập khí đã quen, mới nghe bỉ độ thanh tịnh trang nghiêm, nghi rằng chẳng có sự ấy, là một sự khôn tin. Dầu đã tin Tây phương tịnh độ, lại nghi rằng 10 phương Phật quốc đều khá vãng sinh, sau quyết định một phương Cực lạc, là hai sự nghi vậy. Dầu đã tin vãng sinh, lại nghi rằng ta bà đi đến Cực Lạc, khỏi muôn ức quốc độ, rằng sao cực xa, mà được vãng sinh bỉ quốc, là ba sự khôn tin vậy. Dầu tin chẳng ngại xa, lại nghi rằng nơi đất rộng phàm phu, tội chướng thâm trầm, rằng sao kíp được vãng sinh bỉ quốc, là bốn sự khôn tin vậy. Dầu tin được vãng sanh, lại nghi rằng nơi tịnh độ nhiều cửa kỳ diệu công hạnh, rằng sao những trì danh hiệu, mà được vãng sinh, ấy là 5 sự khôn tin vậy.
Dầu đã tin trì danh, lại nghi rằng dầu trì danh hiệu, tua phải lâu năm nhiều kiếp, mới được thành tựu, rằng sao một ngày đến nhẫn bảy (37a) ngày, bèn được vãng sinh bỉ quốc, ấy là sáu sự khôn tin vậy. Dầu tin nhất nhật thất nhật vãng sinh, lại nghi rằng trong nơi lục đạo tứ sinh, chẳng khỏi noãn thai thấp hoá, rằng sao vãng sinh bỉ quốc, ắt được liên hoa hoá sinh, ấy là bảy sự khôn tin vậy. Dầu đã tin liên hoa hoá sinh, lại nghi rằng những thứ sơ tâm nhập đạo, lòng còn tập khí phan nghiêm, rằng sao mới được vãng sinh bỉ quốc, mà được thành tựu pháp bất thối chuyển, ấy là tám sự khôn tin vậy. Dầu tin được bất thối chuyển, lại nghi rằng ấy thật tiếp diễn những người độn căn chúng sinh, dầu người thượng trí lợi căn, ắt chẳng vãng sinh bỉ quốc, ấy là chín sự khôn tin vậy. Dầu đã tin người thượng căn ắt cũng vãng sinh, lại nghi rằng nơi kinh khác, hoặc thuyết có Phật, hoặc thuyết chẳng có Phật, hoặc rằng có tịnh độ, hoặc rằng chẳng có tịnh độ, hồ nghi chẳng quyết, ấy là mười sự khôn tin vậy .
Xứng lý ắt tự tính bất khả sầu bạc, thất ấy nan tín pháp nghĩa .
Xá Lợi Phất, đương tri ngã ư trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A (37b1) nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vị nhất thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan .
Phật bảo Xá Lợi Phất:”hợp hay ta chưng đời ngũ trược ác thế, ấy công hạnh những sự khó được, nên vô thượng bồ đề chánh đẳng chánh giác, vì hết thảy thế gian, diễn thuyết chưng pháp khôn tin, thực là cực khó”.
Lời sớ sao rằng :
Phật là thật ngữ thật hành, hai sự đều hợp kiêm toàn, muôn đời chúng sinh, ắt thật tin, bèn chẳng nghi vậy. Trong ngũ trược ác thế, dầu đắc đạo là sự nan, trong nan sự lại có hai thứ : Đời thiện thế đắc đạo chưa lấy làm khó. Đời ác thế đắc đạo, dầu được nhân thiên tiểu quả, cũng chưa lấy làm khó. Trong nơi ngũ trược ác thế lại được vô thượng bồ đề, thật là thậm nan .
Xứng lý ắt tự tính tâm cảnh song dung, thật ấy hành thử nhị nan nghĩa .
Phật thuyết thử kinh dĩ, Trưởng lão Xá Lợi Phất cập chư tỷ kheo, nhất thiết thế (38a1) gian, thiên nhân a tu la đẳng .
(38a) Phật diễn thuyết kinh A Di Đà rồi, trưởng lão Xá Lợi Phất, cùng chư Tỳ kheo, hết thảy thế gian chư thiên chư nhân cùng a tu la đẳng .
Lời sớ sao rằng :
Phật bèn thuyết pháp, pháp ắt lưu thông. Lưu là trường lưu bất tuyệt, thông là thông chẳng ủng tắc, truyền khắp 10 phương quá khứ hiện tại vị lai, phổ độ hết thảy chúng sinh chẳng phải nhất xứ nhất thời vậy. Cửa tịnh độ là nan tín chi pháp, duy trí giả năng tin. Vì vậy Phật hằng gọi Xá Lợi Phất. Trong Tỳ kheo cùng đại chúng, Xá Lợi quyền trí đệ nhị hợp đương cơ vậy. Đẳng là nhân thiên tu la, đẳng chư lục đạo .
Xứng lý ắt tự tính cứu cánh viên mãn, thật ấy Phật thuyết kinh dĩ nghĩa. Tự tính chu biến hàm dung, thật ấy nhất thiết thế gian nghĩa .
Văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ .
Nghe Phật thửa diễn thuyết, lòng hoan hỷ tin vâng, làm lễ bèn lui .
Lời sớ sao rằng :
Hoan hỉ là vui mừng, rằng phước duyên gặp Phật, thửa nghe (38b1) diễn thuyết vậy. Tín thọ là vâng tin lãnh nạp những lời hi hữu vậy. Tác lễ là kính trọng làm lễ, thửa nghe lời Phật thuyết vậy. Khứ là nghe rồi bèn lui, mà tu trì vậy .
Xứng lý ắt tự tính vô não, thật ấy hoan hỷ tín thọ nghĩa. Tự tính vô trụ thật ấy tác lễ nhi khứ nghĩa .
Phật thuyết A Di Đà kinh .
Phật là Thích Ca, diễn thuyết A Di Đà kinh .
Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh tịnh độ đà la ni .
Bạt trừ hết thảy nghiệp chướng căn bản được vãng sinh tịnh độ. Thần chú là tổng trì vậy .
Lời sớ sao rằng :
Dùng chủ hộ kinh, kinh được chú càng thêm hiển lý. Dùng kinh trước chú, chú được kinh càng thêm linh ứng. Thần chú khôn tư nghì. Trì chú ắt diệt tội vãng sinh. Vì vậy, bạt nghiệp chướng sinh tịnh độ là danh đà la ni, là tổng trì vậy .
(39a1) Nẳng mồ a di đa bàn dạ đá tha già đa dạ. Đá địa dạ tha. A di lị đô bà tì, a di lị đá tất đam bà tì, a di rị đá tì ca lan đế, ai di rị đá tì ca lan đa, già di nị già già na chỉ đa ca lị, ta bà ha .
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năng tụng thử chú giả, a di đà phật thường trụ kỳ đỉnh, nhật dạ ủng hộ, vô lịnh oan gia, nhi đắc kỳ tiện, hiện thế thường đắc an ổn, lâm mạng chung thời, nhậm vận vãng sinh .
Dầu có người thiện nam tử, thiện nữ nhân hay trì chú tụng thần chú ấy, vậy A Di Đà thường trụ ở nơi đỉnh thượng, đêm ngày ủng hộ, chẳng cho oan gia bèn được thửa tiện, hiện tại (39b) hằng được an ổn, đến khi lâm chung thì dẫu lòng nhậm vẫn vãng sinh .
Lời sớ sao rằng :
Kinh chú tương liên, chính thật hiển mật viên thông nghĩa. Tường trần bỉ quốc, y chính trang nghiêm, cửa tín hạnh như kinh thửa minh, thật gọi là hiển. Vâng lời Phật bí sắc, bèn chuyên trì những thần chú, ắt được vãng sinh, thật gọi là mật. Lại rằng chuyên trì danh hiệu, thắng hơn trì chú, thắng hơn hết thảy chư dư công đức. Trì tụng thần chú ba mươi sáu muôn biến, ắt bèn được thấy A Di Đà Phật. Nhất tâm niệm Phật một ngày ắt thấy Phật hiện tiền vậy. Đêm ngày 12 giờ, mỗi tụng trì chú 21 biến, ắt thật diệt hết ngũ nghịch đẳng tội. Trì danh hiệu, chí tâm niệm Phật nhất thanh, tiêu diệt tám mươi muôn ức kiếp sinh tử trọng tội. Chuyên trì danh hiệu, ắt thật đại thần chú, thật đại minh chú, thật vô thượng chú, thật vô đẳng đẳng chú. Bèn dùng thập niệm, ắt được vãng sinh. Một phen vãng sinh, bèn được bất thối chuyển, uy linh diệu lực, vì vậy gọi là đại thần chú .
Xứng lý ắt tự tính không, thật ấy bạt nghiệp chướng nghĩa, tự tính hữu, ấy thật đà la ni nghĩa, tự tính bất hữu bất không, thật ấy sinh tịnh độ nghĩa.
Thảo luận về post