Hai Thương Buôn Người Myanmar (Miến Điện) Tapussa and Bhallika Cúng Dường Bữa Ăn Đầu Tiên Đến Đức Phật Sau Khi Ngài Giác Ngộ
Businessmen Tapussa and Bhallika offering the Buddha rice and honey cakes from Myanmar. This was the first meal taken by the Buddha after enlightenment. Image Source: Painting from gallery of the Global Vipassana Pagoda
Thương buôn Tapussa và Bhallika cúng dường đến Đức Phật bánh gạo và mật ong từ Myanmar. Đây là bữa ăn đầu tiên được Đức Phật thọ nhận sau khi giác ngộ.
In those days, the people from Orissa (Ukkala, Utkala) who had gone to reside at the mouth of Irāvatī river of Myanmar built a city and named it Ukkala in the memory of their own land. Businessmen from many different parts of India settled in Ukkala.
Vào những ngày đó, người dân từ Orissa (Ukkala, Utkala) đến cư ngụ tại cửa sông Irāvatī của Myanmar đã xây dựng một thành phố và đặt tên là Ukkala, để tưởng nhớ về vùng đất quê hương. Các thương buôn từ nhiều vùng khác nhau của Ấn Độ đã đến định cư ở Ukkala.
Tapussa and Bhallika, two brothers, also lived there. But they were from Balhik, known today as Balakha, which is 18 km to the west of Afghanistan’s Majār-e-shareef.
Hai anh em Tapussa và Bhallika cũng sống ở đó. Nhưng họ đến từ Balhik, ngày nay được gọi là Balakha, cách Majār-e-shareef của Afghanistan 18 km về phía tây.
When the Buddha attained enlightenment, Ukkalapati was the king of Ukkala. Tapussa and Bhallika both did business there. Both traveled to India and back from Ukkala for their business. Their goods brought to Tamralipti from Myanmar via the sea were loaded on 500 carts to be sold in India. While passing through the Uruvela jungle, they had met the Buddha. At that time, the Buddha had just spent seven weeks in the blissful state of liberation and was seated under the Rajāyatana tree, close to the Bodhi tree. Both offered him rice and honey cakes from Myanmar. This was the first meal taken by the Buddha after enlightenment. They received eight hair tufts from the Buddha and returned to Ukkala. King Ukkalapati enshrined these hair relics respectfully in the Botahtaung, Sule and Shwe Dagon stupas, which are revered by people to this day.
Vào thời gian Đức Phật đạt được sự giác ngộ, Ukkalapati là vua của Ukkala. Hai anh em Tapussa và Bhallika đều làm nghề buôn bán ở đó vùng này. Cả hai đã đi đến Ấn Độ và trở về từ Ukkala để kinh doanh. Để thực hiện việc kinh doanh của mình, hai anh em đã đi lại giữa Ấn Độ và Ukkala. Hàng hóa của họ từ Myanmar được đưa đến Tamralipti bằng đường biển đã được chất lên 500 xe thồ để được đem bán. tại Ấn Độ. Trong khi đi qua khu rừng Uruvela, họ đã gặp Đức Phật. Vào thời điểm đó, Đức Phật vừa trải qua bảy tuần an hưởng quả vị giải thoát và Ngài ngồi dưới gốc cây Rajāyatana, cạnh cây Bồ Đề. Cả hai đã cúng dường Ngài bánh gạo và mật ong từ Myanmar.
Đây là bữa ăn đầu tiên được Đức Phật thọ nhận sau khi giác ngộ. Họ đã nhận được tám búi tóc từ Đức Phật và trở về Ukkala. Vua Ukkalapati đã cất giữ những búi tóc này một cách trang trọng trong các bảo tháp Botahtaung, Sule và Shwe Dagon, và được người dân tôn kính cho đến ngày nay.
Tapussa and Bhallika took the five precepts from the Buddha at that time but did not hear any discourse. (The Buddha gave his first discourse in the Deer Park at Varanasi.) After enshrining the hair relics of the Buddha in Ukkala, Tapussa and Bhallika again returned to the country of Magadha and received the teachings from the Buddha. Bhallika took robes and reached the stage of arahathood. Tapussa reached the stage of sotāpanna, remained a householder and continued his business. He developed in the Dhamma and served many others. The Buddha gave both the brothers the title of being ‘the foremost’ (agga).
Tapussa và Bhallika đã thọ năm giới từ Đức Phật vào thời điểm đó nhưng không được nghe pháp thoại nào. (Đức Phật đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên tại Vườn Nai ở Varanasi.) Sau khi lưu giữ các di vật tóc của Đức Phật ở Ukkala, hai anh em Tapussa và Bhallika một lần nữa trở về đất nước Magadha và thụ nhận những lời dạy từ Đức Phật. Bhallika đã quy y và đạt đến giai đoạn Quả vị A La Hán trong khi Tapussa chứng đắc Tu Đà Hoàn (sotāpanna) và vẫn là cư sĩ tại gia. Ông tiếp tục công việc kinh doanh của mình, phát triển trong Giáo Pháp và phục vụ nhiều người khác. Đức Phật đã ban cho cả hai anh em danh hiệu là ’người tiên phong’ (agga).
It is believed that these two gave a few hair relics of the Buddha to Myanmar and kept the remaining few to themselves so that they could construct a monument (stupa) and meditate there. They wanted both their motherland and adapted land to be blessed with the valuable gift of the Buddha. Therefore, they went to Balakha (Bāhallika, Bhallika) the land of their ancestors in the north.
Người ta tin rằng, hai người này đã đưa một vài di vật tóc của Đức Phật cho đất nước Myanmar và giữ lại cho mình một số ít còn lại để có thể xây dựng một tượng đài (bảo tháp) và thiền ở đó. Họ muốn cả quê hương và nơi sinh sống mới của họ được ban phước với món quà quý giá của Đức Phật. Do đó, họ đã đến Balakha (Bāhallika, Bhallika) vùng đất của tổ tiên mình ở phía bắc.
These two brothers were born in a small town named Asitanjana near Balakha. After going there, close to the main gate of the town, they constructed a huge pagoda (stupa) and respectfully enshrined the hair relics there.
Hai anh em này được sinh ra ở một thị trấn nhỏ tên là Asitanjana gần Balakha. Sau khi đến đó, tại gần cổng chính của thị trấn, họ đã xây dựng một ngôi chùa lớn (bảo tháp) và lưu giữ trang trọng các xá lợi tóc của Đức Phật ở đó.
Blessed are Tapussa and Bhallika, who were instrumental in building stupas and enshrining the hair relics in both the eastern and the western neighboring countries of India.
Phước đức là Tapussa và Bhallika, những người có công trong việc xây dựng bảo tháp và lưu giữ các xá lợi tóc ở cả các quốc gia láng giềng phía đông và phía tây của Ấn Độ.
HAI THƯƠNG GIA NGƯỜI MYANMAR CÚNG DƯỜNG PHẬT BỮA ĂN VÀ XIN QUI Y TRỞ THÀNH ĐỆ TỬ CƯ SĨ ĐẦU TIÊN CỦA NGÀI. ĐƯỢC PHẬT BAN CHO 8 SỢI TÓC, 2 VỊ TRỞ VỀ NƯỚC XÂY THÁP PHỤNG THỜ
Trích từ: Kinh Phật Bản Hạnh Tập – Phẩm 35: HAI THƯƠNG GIA CÚNG PHẬT
(Phần 1)
Khi Đức Thế Tôn mới thành đạo, ngồi kiết già dưới gốc cây Bồ-đề bảy ngày đêm không đứng dậy, lấy an lạc giải thoát làm thức ăn. Sau khi trải qua bảy ngày, Ngài nhất tâm chánh niệm, xuất khỏi chánh định, ngồi nơi tòa Sư tử, đêm đầu tiên Ngài quán sát mười hai nhân duyên: từ chi cuối quán sát đến chi đầu, rồi từ chi đầu quán sát đến chi cuối. Khéo nghĩ, khéo quán sát, thấy rõ không khác, nhân nơi chi này sinh ra chi kia, nhân có chi kia mới có chi này. Nghĩa là duyên vào vô minh mới có các hành, duyên vào các hành mới có thức, duyên vào thức mới có danh sắc, duyên vào danh sắc mới có lục nhập, duyên vào lục nhập mới có xúc, duyên vào xúc mới có thọ, duyên vào thọ mới có ái, duyên vào ái mới có thủ, duyên vào thủ mới có hữu, duyên vào hữu mới có sinh, duyên vào sinh mới có các khổ lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não.
Đức Thế Tôn biết các pháp này rồi, lại nói kệ:
Người tu phạm hạnh quán các pháp
Thì biết các pháp là tương sinh
Nếu biết các pháp nhân duyên sinh
Thì biết các pháp nhân duyên có.
Đức Thế Tôn vào nửa đêm ấy quán mười hai pháp nhân duyên, quán từ chi ban đầu cho đến chi cuối cùng, rồi chí tâm không thất niệm, không tán loạn, khéo quán sát, khéo suy nghĩ ngược lại: do không có chi kia thì chi này không có, do chi kia diệt nên chi này tự diệt. Nghĩa là vô minh diệt thì hành tự diệt, hành diệt thì cho đến sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não tất cả đều diệt.
Khi ấy Đức Thế Tôn quán biết các pháp này rồi, Ngài liền nói kệ:
Người tu phạm hạnh quán các pháp
Thì biết các pháp nhân duyên sinh
Nếu biết các pháp nhân duyên sinh
Thì biết các pháp nhân duyên diệt.
Đức Thế Tôn vào nửa đêm ấy quán mười hai nhân duyên, quán từ chi cuối cùng đến chi ban đầu, không thất niệm, không tán loạn, khéo suy nghĩ, khéo quán sát cái kia đã sinh thì sinh cái này, nhân có cái kia nên có cái này. Cái kia không thì cái này cũng không, cái kia diệt thì cái này cũng diệt. Nghĩa là duyên vô minh thì hành sinh, duyên các hành rồi thì tất cả các chi: sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não đều tương sinh. Chi kia không sinh thì chi này cũng không. Chi kia diệt rồi thì chi này cũng diệt.
Khi ấy Đức Thế Tôn biết sự thật này rồi, Ngài nói kệ:
Như người phạm hạnh quán thế gian
Liền biết tương sinh cho đến diệt
Đã phá ma quân lập đạo tràng
Như mặt trời chiếu sáng hư không.
Bầy giờ Đức Thế Tôn từ nơi tòa Sư tử đứng dậy rời cây Bồ-đề chẳng bao xa, Ngài lại ngồi kiết già bất động trong bảy ngày, lấy hạnh giải thoát làm niềm an lạc. Trong bảy ngày ở bên cạnh cây Bồ-đề, chăm chú quán sát, mắt không nhắm, Ngài nghĩ thế này: “Ta ở nơi đây diệt cùng tận vô biên phiền não, đã xả bỏ gánh nặng!”
Sau khi trải qua bảy ngày chánh niệm, chánh tri, Ngài ra khỏi Tam-muội.
Về sau có người ở nơi Ngài ngồi quán sát, bên cạnh Bồ-đề này, xây một ngôi tháp, đặt tên là tháp Không nháy mắt và nói kệ:
Ở đạo tràng này diệt các khổ
Lại ngồi nơi đây quán tòa kia
Đạt được sở nguyện đến bờ giác
Ta chứng Bồ-đề tại nơi đây.
Bấy giờ Đức Thế Tôn từ tháp Không nháy mắt đứng dậy, ung đung đi đến Ma-lê-chi (nhà Tùy dịch là Dương Diệm) nơi đi kinh hành. Sau khi đi kinh hành rồi, Ngài ngồi kiết già trải qua bảy ngày thọ hưởng niềm vui giải thoát. Trải qua bảy ngày rồi, chánh niệm, chánh tri, Ngài ra khỏi Tam-muội. Ngay lúc ấy có Long vương Ca-la (nhà Tủy dịch là Hắc sắc) đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi lui đứng về một bên, bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, tại cung điện này, thuở xưa con đã từng cúng dường chư Phật trong quá khứ. Chư Phật vì thương xót con nên đều nhận lấy và ở nơi cung điện này. Chư Phật đó là Đức Thế Tôn Câu-lưu-tôn, Đức Thế Tôn Câu-na-hàm Mâu-ni và Đức Thế Tôn Ca-diếp. Ngày nay gặp Thế Tôn, lành thay! Thật đúng lúc. Xin Ngài thương xót con, ở nơi đây một thời gian ngắn. Tại sao như vậy? Vì con đã đem cung điện này cúng dường ba Đức Phật trong quá khứ. Ngày nay đến Thế Tôn là vị thứ tư vì con mà nhận lấy cung điện này, tức gọi là “cung điện đầy đủ công đức của con được bốn Đức Phật nhận lấy.”
Lúc ấy Đức Thế Tôn nhận lời Long vương Ca-la, vào trong cung điện ngồi kiết già, trải qua bảy ngày an định không động, hưởng thọ niềm vui giải thoát.
Đức Thế Tôn trải qua bảy ngày chánh niệm, chánh tri rồi ra khỏi Tam-muội, bảo Đại long vương Ca-la:
-Này Long vương, ông đến với Ta thọ pháp Tam quy: Phật… và ngũ giới. Ông sẽ hưởng thụ đại an lạc mãi mãi.
Long vương Ca-la liền bạch Phật:
-Xin vâng lời Đức Phật dạy, tâm không chống trái, con theo lời Thế Tôn đã bảo.
Long vương Ca-la nghe lời Đức Phật dạy như vậy rồi, liền chắp tay hướng về Đức Phật lãnh thọ ba pháp Tự quy y: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, rồi lãnh thọ năm giới cấm, là cận sự nam đầu tiên trong thế gian. Trong loài súc sinh, tự nói ba pháp Tam quy và ngũ giới, đó là Long vương Ca-la.
Thuở ấy, lại có một Long vương khác tên là Mục-chân-lân-đà, đang hướng về chỗ Đức Phật. Khi đã đến nơi, Long vương lễ dưới chân Đức Phật rồi lui về một bên. Sau khi đứng về một bên, Long vương bạch Phật:
-Thưa Đức Thế Tôn, cung điện này của con, thuở xưa đã từng cúng dường tất cả chư Phật. Quý Ngài nhận lấy và ở trong đó.
Chư Đức Phật đó là Đức Thế Tôn Câu-lưu-tôn, Đức Thế Tôn Câu-na-hàm Mâu-ni và Đức Thế Tôn Ca-Diếp. Hay thay! Ngày nay gặp được Thế Tôn, xin cũng vì con nhận lấy cung điện này, thì con sẽ được bốn Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác thọ nạp cung điện này, con sẽ được lợi ích hoàn toàn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn tùy thuận Long vương Mục-chân-lân-đà nhận lấy cung điện. Ngài ngồi kiết già trong cung điện này trải qua bảy ngày không đứng dậy, để hưởng niềm vui giải thoát. Trong thời gian bảy ngày này, trên hư không kéo mây tuôn mưa, thổi cơn gió rất lạnh, mưa suốt bảy ngày không ngớt, không khí trở thành giá lạnh. Khi ấy Long vương Mục-chân-lân-đà ra khỏi cung điện, hiện thân to lớn, cuộn thành bảy ngày vòng che chở Đức Phật, lại hiện bảy đầu cúi xuống làm chiếc lọng lớn che trên đầu Đức Phật. Tâm Long vương nghĩ thế này.: “Chẳng để thân Thế Tôn bị gió rét lạnh và bụi bặm dính vào. Cũng đừng để các loài trùng, muỗi mòng chích Thế Tôn.”
Đã qua bảy ngày, bấy giờ trời trong sáng không có mây mù, Đức Thế Tôn chánh niệm chánh trí ra khỏi Tam-muội. Khi ấy Long vương Mục-chân-lân-đà thu hình rồng, hiện hình Bà-la-môn trẻ tuổi, đứng trước Phật, chắp tay lễ sát đất bạch Phật:
-Vừa rồi không phải con muốn nhiễu loạn Như Lai, con hiện hình rồng cuộn quanh Như Lai bảy vòng, lại hiện bảy đầu che trên đảnh Như Lai là muốn Như Lai được an ổn, chỉ sợ Thế Tôn bị gió nước thấm lạnh, đất bụi dính vào người, cùng côn trùng, muỗi mòng chích vào thân. Bạch Đức Thế Tôn, do con nghĩ như vậy nên mới che phủ Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì nhân duyên này, tự nói kệ tán thán:
Biết đủ tịch định rất an lạc
Biết đủ quán sát rất sâu xa
An lạc không phiền não trong đời
Lại không sát hại các chúng sinh.
Nếu muốn ở đời thật an lạc
Tất cả tham dục phải xa lìa
Xả bỏ ngã mạn, tánh kiêu căng
Vui này tối thắng rất an lạc
Bao nhiêu dục lạc ở nhân gian
Nếu bỏ được hết không còn ái
Vui đời so sánh với vui đạo
Đạo mười sáu phần, đời không một.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo Long vương Mục-chân- lân-đà:
-Đại vương hãy đến đây thọ pháp Tam quy và Ngũ giới. Đại vương sẽ mãi mãi thọ hưởng an lạc.
Long vương Mục-chân-lân-đà bạch Phật:
-Đúng như lời Thế Tôn đã dạy, con luôn tuân theo.
Mục-chân-lân-đà nghe lời dạy của Đức Phật, liền đến bên Đức Thế Tôn thọ pháp Tam quy và Ngũ giới.
Khi Đức Thế Tôn còn tu Bồ-tát hạnh, có một người chăn dê, trong thời gian sáu năm Bồ-tát tu khổ hạnh, người này đối với Đức Thế Tôn đem tâm thanh tịnh, tôn trọng cung kính cúng dường, lại đem sữa dâng cúng Thế Tôn và bẻ cành Ni-câu-đà cắm che mát Thế Tôn. Khi ấy cành cây này biến thành đại thọ, người chăn dê này tùy theo nhân duyên thiện căn tín tâm ít nhiều này, sau khi qua đời sinh lên cõi trời Đao-lợi làm Thiên tử, có đại oai lực thần thông tự tại. Người chăn dê sau khi sinh lên cõi trời, lại suy nghĩ: “Ta nay được quả báo, do nghiệp nhân gì mà được thân này?” Lại nghĩ: “Nhớ thuở xưa khi Đức Thế Tôn còn là Bồ-tát, ta đích thân tạo nghiệp như thế này: Khi Bồ-tát tu khổ hạnh, ta đem sữa dâng cúng cho Ngài. Nơi Ngài ngồi, ta bẻ cành Ni-câu-đà cắm vào đất để che mát Bồ-tát. Nhờ thiện nghiệp đó, ta nay được quả báo vi diệu này.” Thiên tử lại nghĩ thế này: “Nhờ khi Đức Thế Tôn còn là Bồ-tát, ta gần gũi cúng dường nên nay được quả báo này. Ta cắm cành cây Ni-câu-đà che mát Đức Thế Tôn, nên nay được quả báo và có những thần thông vô ngại này. Huống chi ngày nay Đức Thế Tôn đã chứng quả Vô thượng Bồ-đề, Ngài vì ta mà trở lại nghỉ mát dưới bóng cây này.”
Vào nửa đêm, thân phóng hào quang rực rỡ, chiếu sáng đến cây Bồ-đề, Thiên tử với ánh sáng cõi trời ấy đi đến chỗ Đức Phật.
Đến nơi, vị ấy đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui về một bên. Khi ấy Thiên tử liền bạch Phật:
-Hay thay, Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì thương xót con, nhận cây này, được an lạc theo ý muốn.
Khi ấy Đức Thế Tôn vì thương xót Thiên tử, nhận cây Ni-câu- đà mà thuở xưa người chăn dê đã cắm vào đất. Nhận lời rồi, Ngài ngồi kiết già bất động dưới cây này, trải qua bảy ngày để cảm thọ sự giải thoát an lạc.
Sau khi trải qua bảy ngày, Ngài chánh niệm chánh tri, ra khỏi Tam-muội, bảo Thiên tử:
-Này Thiên tử, lại đây! Đến bên Ta thọ lãnh pháp Tam quy và Ngũ giới. Người sẽ thọ hưởng an lạc lâu dài.
Thiên tử thọ ba pháp Tự quy y và Ngũ giới rồi, trong thế gian. Đây là vị trời đầu tiên được Đức Phật trao cho ba pháp Quy y và Ngũ giới, làm người Ưu-bà-tắc. Tiền thân vị này là người chăn dê, do cúng dường cây, sữa… cho Bồ-tát, nên được quả báo thân chư Thiên.
Phẩm 35: HAI THƯƠNG GIA CÚNG PHẬT
(Phần 2)
Bấy giờ Đức Thế Tôn từ rừng “Người chăn dê trồng cây” đứng dậy, ung dung đi dần đến một khu rừng phía dưới, tên là Sai-lê-ni-ca (nhà Tùy dịch là rừng Chảy sữa). Đến khu rừng này, Ngài ngồi kiết già trải qua bảy ngày, vì muốn thọ an lạc giải thoát.
Trải qua bảy ngày, Ngài xuất định, chánh niệm chánh tri. Đức Thế Tôn trải qua bảy lần bảy ngày như vậy là do có sức thiền định an trụ liên tục. Được nàng Thiện sinh, con chủ thôn nọ cúng cháo sữa, Ngài chỉ thọ dụng một lần rồi sau đó không ăn gì nữa và sống đến ngày hôm nay.
Thuở ấy, ở phía Bắc xứ Ấn độ có hai thương chủ, một người tên là Đế-lê-phú-sa (Tùy dịch là Hồ Qua). Người thứ hai tên là Bạt-lê-ca (Tùy dịch là Kim Đỉnh). Hai thương chủ này có nhiều trí tuệ, ngay thẳng, chín chắn. Hai người này từ Trung Ấn độ xuất phát, với nhiều hàng hóa, chở đầy năm trăm xe, rất thuận lợi. Khi ấy, hai thương chủ từ Trung Ấn quay trở về Bắc Ấn. Trên con đường trở về phải đi qua khu rừng Sai-lê-ni-ca, cách đó không xa, đoàn lái buôn tuần tự đi tới.
Nhóm thương chủ ấy có một con trâu được huấn luyện đặc biệt, luôn luôn đi trước đoàn xe. Chỗ nào có chướng ngại khủng bố thì con trâu được huấn luyện tốt này, dù có đánh đập, lấy dây cột kéo cũng không chịu đi.
Bấy giờ ở rừng Sai-lê-ni-ca có vị thần giữ rừng. Vị thần này ẩn thân giữ hai con trâu đã được huấn luyện, đứng yên không cho tiến bước. Hai thương chủ đều cầm cọng sen xanh đánh hai con trâu này, nó vẫn không chịu đi. Năm trăm cỗ xe khác đều đứng yên, bánh xe cũng không di chuyển, các dây đai đều tự đứt đoạn, còn bao nhiêu những biến đổi kỳ lạ không tốt như càng, ách, trục, chốt, bầu, tăm, thành, thùng, dây cổ, móc câu, hoặc gãy, hoặc vỡ, hoặc nát, hoặc rách…
Lúc ấy hai thương chủ Đế-lê và Bạt-lê-ca hết sức sợ hãi, vô cùng khổ não, toàn thân dựng chân lông, bàn với nhau:
-Chúng ta đang gặp phải tai họa khác thường và chịu lấy tai ương gì đây!
Hai người rời cách xe vài ba bước, chắp tay trên đầu đảnh lễ tất cả chư Thiên, tất cả thần linh, đứng yên chí tâm khấn vái: “Nguyện xin tất cả những tai ương kỳ lạ khủng bố ngày hôm nay của hai con sớm được tiêu diệt, mau được điều lợi ích an ổn tốt đẹp.” Bấy giờ Thần thủ hộ khu rừng hiện nguyên hình, an ủi hai thương chủ:
-Này các thương chủ, chớ nên sợ hãi, các ông ở đây hoàn toàn không có tai ương hiểm họa. Này các thương chủ, ở đây chỉ có Đức Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mới thành Phật Vô thượng Bồ-đề, đang ở trong rừng này. Từ khi Ngài thành đạo đến nay, trải qua đúng bốn mươi chín ngày chưa từng ăn uống. Này các thương chủ, nếu thấy đúng lúc, hai người nên đi đến chỗ Đức Vô Thượng Chánh Giác, đem bánh bột sữa mật đến cúng dường trước tiên. Các ông sẽ được an lạc, nhiều sự lợi ích lớn mãi mãi.
Hai thương chủ nghe lời Thần hộ rừng nói như vậy, bạch:
-Như lời Thần dạy, chúng con xin làm theo.
Hai thương chủ mỗi người đem bánh bột sữa mật cùng một số thương nhân đồng đi đến chỗ Đức Phật. Khi gần đến nơi, hai thương chủ từ xa trông thấy Đức Phật dung nghi đoan chánh khả ái, trong thế gian không ai sánh bằng, cũng như các vì sao trên bầu trời, các tướng trang nghiêm trên thân. Thấy rồi đem tâm rất kính trọng, lòng tin thanh tịnh, họ hướng đến trước Thế Tôn. Khi đến nơi, họ lễ dưới chân Đức Phật rồi, lui đứng về một bên. Khi ấy hai thương chủ đồng bạch Đức Phật:
-Nguyện Đức Thế Tôn vì thương xót chúng con mà nhận lấy bánh bột sữa mật ngon sạch này.
Bấy giờ Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Thuở xưa tất cả chư Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều có thọ trì bát hay không?” Trong tâm Thế Tôn liền biết: “Tất cả chư Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đều thọ trì bát.”
Khi ấy Thế Tôn lại nghĩ: “Ta nay phải dùng bát gì để nhận bột sữa mật của hai thương chủ này?” Khi Thế Tôn muốn nhận bát, thì bốn vị Thiên vương đều từ bốn phương cấp tốc cùng mang bốn bình bát bằng vàng bay đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, bốn vị đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui đứng một bên. Khi bốn vị Thiên vương đứng về một bên, liền đem bốn bát bằng vàng dâng lên Thế Tôn, bạch:
-Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con, nhận bát này để đựng bột sữa mật của hai vị thương chủ, để chúng con được nhiều an vui, lợi ích lớn lâu dài.
Đức Thế Tôn không nhận, vì người xuất gia không nên chứa dùng bát bằng vàng. Bốn vị Thiên vương bỏ bốn bát bằng vàng, lại đem bốn bát bằng bạc dâng cúng Thế Tôn và bạch:
-Thưa Thế Tôn, Ngài có thể dùng bát này đựng thức ăn để chúng con được nhiều an vui, lợi ích lớn lâu dài.
Thế Tôn không nhận.
Như vậy, bốn vị Thiên vương lại đem bốn bát bằng pha lê, Thế Tôn cũng không nhận.
Như vậy, bốn vị Thiên vương lại đem bốn bát bằng lưu ly, Thế Tôn cũng không nhận.
Như vậy, bốn vị Thiên vương lại đem bốn bát bằng ngọc bảo mà Thế Tôn cũng không nhận.
Như vậy, bốn vị Thiên vương lại đem bốn bát bằng mã não, Thế Tôn cũng không nhận.
Kế đến, bốn vị Thiên vương lại đem bốn bát bằng xa cừ dâng cúng Thế Tôn. Thế Tôn lại cũng không nhận bốn bát này.
Khi ấy, Tỳ-sa-môn vương thuộc phương Bắc, nói với ba vị Thiên vương kia:
-Ta nhớ thuở xưa chư Thiên màu xanh đem bát bằng đá đến hiến dâng cho chúng ta và thưa với chúng ta: “Quý Ngài có thể đựng thức ăn trong bát đá này mà ăn.” Lại lúc đó có một Thiên tử khác tên là Tỳ-lô-giá-na thưa với chúng ta: “Quý vị nhân giả Thiên vương cẩn thận, chớ nên đựng đồ ăn trong bát này mà ăn. Quý nhân giả chỉ có thể cùng cúng dường như cúng dường tháp vậy. Tại sao? Đời tương lai sẽ có một Đức Như Lai ra đời, tên của Đức Như Lai là Thích-ca Mâu-ni. Lúc ấy quý nhân giả nên đem bốn bát đá này dâng cúng cho Ngài.” Các nhân giả Thiên vương, nay đã đến lúc chúng ta đem bốn bát ấy dâng cúng cho Thế Tôn.
Bấy giờ bốn vị Thiên vương trấn bốn phương, đều đem theo quyến thuộc chung quanh, vội đi vào cung điện của mình, mỗi vị lấy một cái bát đá màu xanh biếc đẹp đẽ, thoa các thứ hương thơm vào bát rồi đựng đầy các thứ hoa trời, lại đem tất cả âm nhạc cõi trời cúng dường chiếc bát này, hướng về chỗ Đức Phật. Sau khi đến nơi, họ đồng đem bốn bát dâng cúng Thế Tôn, bạch:
-Cúi xin Đức Thế Tôn nhận chiếc bất này, dùng bát này để đựng bánh bột sữa mật của hai thương chủ. Xin Ngài thương xót chúng con, để cho chúng con được nhiều điều lợi ích an lạc lâu dài. Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: “Bốn vị Thiên vương này đem lòng tin thanh tịnh cúng cho Ta bốn cái bát, Ta không thể dùng cả bốn cái. Nếu Ta nhận bát một người thì ba người còn lại sẽ giận. Nếu Ta nhận bát hai người, thì hai người còn lại sẽ giận. Nếu ta nhận bát ba người thì một người còn lại sẽ giận. Ta hãy nhận bốn bát rồi đem sức thần thông biến thành một bát.”
Lúc ấy Đức Thế Tôn nhận bát của Thiên vương Đề-đầu-lại-tra rồi nói kệ:
Khéo cúng Thế Tôn bình bát tốt
Người quyết sẽ thành diệu pháp khí
Đã cứng cho Ta bát thanh tịnh
Quyết tăng trí tuệ, tâm chánh niệm.
Đức Thế Tôn cũng nhận bát của Thiên vương Tỳ-lâu-lặc-xoa thọ nhận một bát, rồi nói kệ:
Ta quán chân như ai cúng bát
Người ấy chánh niệm tâm tăng trưởng
Nhờ bát nuôi lớn đời an lạc
Mau được an lạc thân thanh tịnh.
Đức Thế Tôn cũng nhận bát của Thiên vương Tỳ-lâu-bát-xoa, rồi nói kệ:
Ông đem tịnh tâm cúng tịnh bát
Thật tâm thanh tịnh cúng Như Lai
Tương lai mau chứng tâm thanh tịnh
Thế gian người trời đều vừa ý.
Đức Thế Tôn cũng nhận một bát của Thiên vương Tỳ-sa-môn, rồi nói kệ:
Chư Phật Thế Tôn trì tịnh giới
Điều phục các căn cúng bát lành
Tâm không khuyết hoại ân trọng cúng
Đời sau ông được ruộng thanh tịnh.
Khi ấy Đức Thế Tôn nhận bốn bình bát rồi, theo thứ lớp chồng trên bàn tay trái, rồi dùng bàn tay phải đè xuống. Do sức thần thông, bốn bát hợp thành một bát mà thành bát có bốn lớp, Ngài nói kệ:
Xưa tu công đức nay quả nhãn
Nhờ phát tâm thanh tịnh từ mẫn
Do vậy hôm nay Tứ Thiên vương
Thanh tịnh kiên cố cúng Ta bát.
Có kệ nói:
Thuở ấy Thế Tôn muốn thọ thực
Thiên vương bốn hướng mang bát đến
Tỏ lòng dâng cúng Phật Thế Tôn
Thọ rồi thần thông biến một bát.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì lòng thương hai vị thương chủ Đế-lê phú-sa và Bạt-lê-ca Bắc Ấn độ nên nhận bánh bột sữa mật đựng trong bát mới sạch của bốn vị Thiên vương vừa cúng, đúng như pháp mà thọ thực. Khi Ngài thọ trai xong, bảo hai vị thương chủ cùng hàng thương nhân:
-Này các thương chủ, các người nhận với Ta ba pháp Quy y: Phật, Pháp, Tăng và thọ năm giới cấm, sẽ làm cho các ông được an lạc, nhiều lợi ích lớn lâu dài.
Hai vị thương chủ cùng quyến thuộc nghe Đức Phật nói như vậy, cùng nhau bạch Phật:
-Chúng con theo lời Phật dạy, không làm trái.
Họ cùng nhau thọ ba pháp tự quy y. Ở trong nhân gian người đầu tiên thọ Tam quy và Ngũ giới làm vị Ưu-bà-tắc là hai thương chủ Đế-lê-phú-na và Bạt-lê-ca.
Lúc ấy Đức Thế Tôn vì hai thương chủ nói kệ tùy hỷ:
Vật thí đầy đủ sắc, hương, vị
Phương tiện thọ rồi lìa phiền não
Trong đó hòa hợp đủ thức ăn
Nên được gọi là bột sữa mật.
Ăn xong, thân thể mịn tươi sáng
Mặt sáng như hoa, dung nhan đẹp
Khí lực dồi dào, được lợi ích
Trừ được đói khát, tâm an ổn.
Cúng Phật Thế Tôn cháo như vậy
Khiến hàng phạm hạnh được no đủ
Ta đã thọ thực được no nê
Hai vị thương chủ cúng bánh bột.
Ta họ Cam Giá, dòng Nhật Chủng
Ca ngợi người này là tối thượng
Do vì công đức bố thí này
Sẽ đạt Thánh trí quả cùng cực
Các lậu tất cả đều diệt sạch,
Do vì nhân duyên tạo nghiệp này
Sau lại dần dần không sợ sệt
Giải thoát dần phiền não ràng buộc
Chứng được vô lậu, được thảnh thơi.
Thí như ruộng tốt, rất bằng phẳng
Hạt giống, mầm, mạ đều tươi tốt
Mưa thuận, gió hòa đúng thời tiết
Lúa mạ mọc nhiều tăng trưởng tốt
Bởi do hạt giống tốt như vậy
Mọc rồi phát triển thật sum suê
Dé lúa nặng quằn tăng gấp bội
Thâu hoạch sản lượng vô số kể.
Cũng như thành tựu các giới hạnh
Bố thí thật nhiều thức ăn uống
Sau được quả bảo tốt không lường
Do xưa, nay lợi, lẽ dĩ nhiên.
Nếu người muốn cầu đời sau lợi
Hy vọng chuyển thành nhiều quả tốt
Chỉ việc cúng dường Bậc Nhân Trí
Sẽ thành diệu quả chứng Bồ-đề
Và thành Thiện Thệ, Thế Gian Giải
Tâm mình đã được nhiều lợi ích
Rồi lại vì người nói các pháp
Người được tự lợi, lợi chúng sinh
Như vậy tôn xưng Bậc Đại Trí
Muốn được tự lợi, lợi tất cả
Muốn chứng đạo quả để độ sinh.
Đối với Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng
Tâm phải phát sinh hạnh chánh tín
Nhờ tín tâm nên được quả báo
Tín hạnh được rộng lớn hoàn hảo
Thì được giới hạnh khó nghĩ bàn
Tức chứng Tối thắng Vô thượng đạo
Bố thí được quả Tối thắng này
Thấy được chân thật của thế giới.
Lại chứng đạo quả trí viên mãn
Thánh quả phải chánh kiến như vậy
Thấy được như vậy là chánh niệm
Trần lao phiền não đều tan biến,
Chứng được Vô úy đại Niết-bàn
Giải thoát các khổ ở thế gian
Như vậy các pháp được đầy đủ
Chư Thánh khen đây là tối thượng.
Sinh, già, bệnh, chết đều không còn
Buồn khổ biệt ly đều diệt sạch
Thập lực Thế Tôn khen lạc này
Sẽ đến nơi thường, không sinh tử.
Bấy giờ hai vị thương chủ Đế-lê-phú-sa và Bạt-lê-ca cùng các thương nhân đồng bạch Phật:
-Bạch đại Đức Thế Tôn, đoàn người chúng con đang trên đường về, cúi xin Thế Tôn vì chúng con chú nguyện an lành, để cho chúng con không gặp điều chướng ngại, sớm trở về nước mình.
Lúc ấy Đức Thế Tôn vì hai thương chủ và đoàn thương gia nói lời nguyện an lành bằng kệ:
Nguyện loài hai chân lợi lạc lớn
Cả loài bốn chân cũng bình an
Trên đường về quê nhiều điềm tốt
Đi đến các nơi đều như ý,
Ngày đêm đi, nghỉ được vừa lòng
Trong ngày ở đâu cũng nhiều lợi
Các nơi đều được theo ý nguyện
Thương chủ, thương nhân đều khỏe mạnh.
Muốn có giống tốt để sạ ruộng
Sạ rồi hy vọng thu hoạch nhiều
Tất cả thương nhân đi cầu lợi
Vào biển tìm ngọc thật gian nan
Các ông hy vọng nên lên đường
Sở nguyện được lợi mau thành tựu.
Ta nay thành đạo thật vui mừng
Nguyện ông đến đâu đều tốt đẹp
Tất cả tài lợi theo nhu cầu
Những gì ông muốn chóng vừa lòng
Tất cả các phương ông đi đến
Nguyện đều không có các tai ương.
Bấy giờ hai thương chủ đồng bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, xin Ngài cho chúng con một vật làm kỷ niệm, để khi về quê hương không còn thấy Thế Tôn, chúng con lấy vật này xây tháp, lễ bái để tỏ lòng thương nhớ Đại Thánh Thế Tôn. Chúng con tôn trọng cúng dường trọn đời.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đem tóc, móng trên thân minh cho các thương chủ làm vật kỷ miệm và bảo họ:
-Này các thương chủ, móng tóc này Ta đem cho để các ông làm vật kỷ niệm, thấy vật này cũng như thấy Ta. Sau này sẽ có một tảng đá từ trên hư không rơi xuống nơi quê hương các ông. Nếu các ông thấy, phải xây tháp nơi đó tôn trọng cúng dường.
Khi ấy hai thương chủ Đế-lê-phú-sa và Bạt-lê-ca nhận tóc, móng nơi Đức Phật rồi thầm nghĩ: “Tóc, móng này là vật đào thải trên thân, không phải pháp thắng diệu, không nên đem tôn trọng cúng dường.”
Lúc ấy Đức Phật biết tâm niệm của các thương nhân nên bảo họ:
-Này các thương chủ, chớ nên có ý nghĩ như vậy! Ta nhớ thuở xưa trải qua vô lượng vô biên kiếp số không thể nghĩ bàn, có Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trong Tâm, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thuở ấy Ta là đồng tử Bà-la-môn thông suốt bốn bộ luận Tỳ-đà. Khi thấy Đức Thế Tôn đi vào thành Liên hoa, Ta đem năm cành hoa sen xanh rải trên Đức Phật, liền khi đó phát tâm Bồ-đề. Đức Thế Tôn Nhiên Đăng liền thọ ký cho Ta: “Này Đồng tử, ở đời vị lai trải qua số kiếp a-tăng-kỳ ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Vô Thượng Chánh Đẳng Chanh Giác.”
Bấy giờ Ta lìa gia đình, cạo bỏ râu tóc xuất gia, ở trong pháp của Thế Tôn Nhiên Đăng. Sau khi Ta xuất gia, tất cả chư Thiên lấy hết tóc của Ta mà chia ra, cứ mười muôn chư Thiên thì được một sợi tóc cùng nhau đem về cùng cúng dường. Từ đó đến nay, Ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bằng Phật nhãn, Ta thấy các chúng sinh ấy không một ai không vào Niết-bàn. Ta lúc đó chưa thoát khỏi tham dục, sân si mà ngàn vạn ức vô lượng vô số chúng sinh cúng dường tóc của Ta vẫn còn chứng Niết-bàn.
Huống chi ngày nay, tất cả phiền não, tham, sân, si kết hoặc tất cả đều trừ diệt hết. Các ông vì lý do gì không hết lòng tôn trọng móng, tóc thanh tịnh không ô nhiễm này?
Hai thương chủ và các thương nhân nghe Đức Thế Tôn nói sự việc nhân duyên quá khứ liền đối với móng, tóc ấy sinh tâm hy hữu, hết sức tôn trọng cung kính, đảnh lễ đầu sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi lui bước lên đường.
Có kệ nói:
Thương nhân các phương qua lối này
Thọ thần hay được bảo họ:
Đây có Thế Tôn được tự lợi
Các ông lễ cúng các thức ăn.
Đức Thế Tôn trải qua bốn mươi chín ngày không ăn uống, đầu tiên nhận vật thực nơi các thương nhân. Thế Tôn sau khi ăn xong, do nghiệp lực quá khứ nên thức ăn không tiêu, bỗng nhiên đau bụng. Lúc ấy, ở núi này có một Dược thần đem quả A-lê-lặc mới có, ngon ngọt vô cùng, đi đến chỗ Đức Phật, khi đến nơi đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui về một bên, bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, nếu Ngài có đau bụng, trái A-lê-lặc vừa mới ra đầu tiên vô cùng ngon ngọt, con đem đến đây dâng cúng Thế Tôn. Nếu Ngài thấy hợp thời, xin vì con mà nhận quả A-lê-lặc này. Xin Ngài thương xót con mà dùng. Nếu Thế Tôn trong bụng có bệnh, sau khi ăn quả A-lê-lặc này rồi, bệnh liền hết.
Đức Thế Tôn vì thương xót vị Dược thần liền nhận quả A-lê-lặc. Nhận rồi, bảo thọ thần:
-Này Dược thần, hãy đến đây quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và thọ giới năm giới cấm, ông sẽ ở được nhiều điều an lạc lợi ích lớn lâu dài.
Dược thần nghe Đức Phật dạy, liền bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, tốt lắm! Con không trái lời Phật dạy.
Dược thần thọ ba pháp quy y và năm cấm giới.
Đương thời, trong tất cả Dược thần Thiên nữ được thọ Tam quy và Ngũ giới, làm vị Ưu-bà-di đầu tiên là vị Dược thần Thiên nữ ở chung quanh núi của các đại Dược thần.
Đức Thế Tôn nhận quả A-lê-lặc từ nơi thiên nữ Dược thần dâng cúng, Ngài ăn quả, còn hạt đem gieo xuống đất. Nhờ thần lực tự tại của Đức Phật, hạt A-lê-lặc nội trong ngày đó liền phát triển thành rễ. Thân, cây, cành, nhánh của đại thọ liền đâm chồi nảy lộc, ra hoa, kết quả, rồi thành quả chín. Bệnh đau bụng của Đức Thế Tôn cũng hết.
Trích từ: Kinh Phật Bản Hạnh Tập
Thảo luận về post