Tên tục của tôi là Tiêu. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Hương. Thân phụ tên Ngọc Đường, thân mẫu họ Nhan. Năm đầu đời nhà Thanh niên hiệu Đạo Quang, thân phụ làm quan tại tỉnh Mân (tỉnh Phúc Kiến). Trong khoảng năm mậu tuất đến năm kỷ hợi làm quan phụ tá tại châu Vĩnh Xuân.
Thân phụ và thân mẫu đã ngoài bốn mươi, lo buồn vì hiếm muộn con. Thân mẫu ra ngoài thành đến chùa Quán Âm cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan không được tu sửa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả thân phụ và thân mẫu cùng nằm mơ thấy một vị mặc áo bào xanh, râu dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên nằm trên giường. Thân mẫu kinh sợ, giật mình thức dậy và kể lại, liền thọ thai như ý mong cầu. Cuối năm đó thân phụ đi nhậm chức tại phủ Tuyền Châu.
Tháng bảy ngày hai mươi, giờ dần, tôi ra đời tại phủ Tuyền Châu. Lúc ấy thân được bao bọc bởi một bọc thịt. Thân mẫu thấy vậy, kinh hãi vô cùng, nghĩ từ đây về sau chắc sẽ không còn hy vọng sanh con được nữa, nên buồn uất khí mà chết. Hôm sau, có ông lão bán thuốc đến cắt bọc thịt, bồng tôi ra. Kể từ đó được bà kế mẫu, Vương Thị, chăm sóc nuôi nấng.
Thân phụ trở về Tuyền Châu. Tôi được chú nhận làm con nuôi, nên bà nội, Châu Thị, định cưới hai cô vợ cho tôi, tức Điền Thị, và Đàm Thị. Cả hai đều là người tỉnh Hồ Nam, dòng dõi quan liêu tại Phúc Kiến, đời đời đã từng làm bạn thông giao với dòng họ tôi.
Đông năm ấy bà nội tôi qua đời. Thân phụ thọ tang.
Tháng hai, tôi cùng thân phụ đi Đài Loan. Lên thuyền nhỏ ra biển, từ cửa Hạ Môn xuất phát. Lúc đang lênh đênh trên biển cả, bỗng đâu hiện ra một quái vật, lớn như núi, cao hơn mặt biển cả vài chục thước. Tất cả người trên thuyền thảy đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm. Thuyền chạy khoảng nửa giờ sau thì thấy đuôi cá khổng lồ, dài không biết cả mấy trăm thước.
Tôi theo thân phụ đưa linh cữu bà nội trở về huyện Tương Lương an táng. Thỉnh chư tăng đến nhà làm Phật sự. Được thấy pháp khí Tam Bảo, tâm sanh vui mừng. Tạng sách trong nhà có kinh Phật. Lúc đầu xem truyện Hương Sơn, sự tích thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Ấm, liền thâm nhiễm vào tâm. Tháng tám, theo chú đi Bồ Đường, hành hương ở Nam Ngạc. Đi lễ khắp các chùa, dường như có duyên xưa nên không muốn trở về nhà. Nhưng vì chú quá nghiêm nghị, nên không dám nói.
Thân phụ biết tôi có chí xuất trần nên muốn dùng lợi lạc thế gian mà lưu giữ ở lại, bằng cách mời một vị tiên thiên đại đạo, Vương tiên sinh, đến dạy cách tu hành tại nhà. Vị này dạy đọc các sách đạo lão cùng luyện nội ngoại khí công. Tuy tâm tôi không muốn học, nhưng lại không dám nói. Mùa đông, thân phụ giải tang bà nội xong, giao tôi cho chú dạy dỗ, coi sóc, rồi một mình đi Phúc Kiến để nhận chức tại Hạ Môn.
Tôi học sách đạo giáo tại nhà trong ba năm, chịu nhẫn hết sức, như ngồi trên bàn đinh. Lại giả vờ làm cho chú vui, nên giúp việc nấu nướng trong nhà, nhưng rất biếng nhác. Ngày nọ, thừa lúc chú đi ra ngoài, tôi nghĩ thời điểm rời nhà đã đến nên xách bị trốn đi Nam Ngạc. Có rất nhiều đường lớn nhỏ, khó đi. Giữa đường, bị người nhà bắt đưa trở về Tuyền Châu. Cùng đi có người em họ tên là Phú Quốc. Chẳng bao lâu, thân phụ cho tiếp rước hai cô họ Điền và Đàm để cử hành hôn lễ. Thế là tôi bị cấm cố tại nhà. Tuy cùng hai cô vợ ở chung nhà nhưng không nhiễm tình dục. Tôi giảng Phật Pháp cho hai cô vợ nghe. Họ cũng hiểu rõ. Thấy người em họ Phú Quốc cũng có chí xuất tục nên đồng học Phật pháp. Nơi phòng riêng hay nhà khách, chúng tôi đều là bạn đạo thanh tịnh.
Tôi quyết chí ly tục. Phú Quốc cũng đồng chung chí hướng. Chúng tôi bí mật xem lộ trình đến Cổ Sơn ở Phước Châu. Tôi làm Bài Ca Túi Da để lưu biệt hai cô họ Điền và họ Đàm. Sau đó cùng Phú Quốc trốn đi đến chùa Dõng Tuyền, Cổ Sơn, Phước Châu. Lễ lão hòa thượng Thường Khai làm thầy xuống tóc.
Tôi theo hòa thượng Diệu Liên ở Cổ Sơn thọ giới cụ túc, pháp danh là Cổ Nham, cùng Diễn Triệt tự Đức Thanh. Lúc ấy, thân phụ tại Tuyền Châu sai người đi khắp nơi để tìm tôi. Sau khi thọ giới cụ túc xong, Phú Quốc hành cước tham phương tầm thầy học đạo. Từ đó, không còn biết tông tích chi nữa. Tôi ẩn tại một hang động sau núi, lễ sám vạn Phật, không dám lộ diện. Lúc ấy thường gặp hổ sói, nhưng tâm không sợ sệt.
Tại hang núi tôi lễ sám, đã mãn ba năm. Ngày nọ, vị chức sư ở Cổ Sơn lên cho hay rằng thân phụ tôi nơi Tuyền Châu đã từ quan về hưu. Tôi không cần phải trốn lánh nữa. Lão hòa thượng Diệu Liên rất khen tôi hằng tâm tu khổ hạnh. Nhưng tu huệ cũng cần phải tu phước, phải nên trở về núi nhậm chức, làm việc. Sau đó, tôi liền trở về núi, nhận công việc. Nhậm chức tại Cổ Sơn. Mùa đông, tháng mười hai, nghe tin thân phụ vì bịnh nên đã qua đời tại huyện Tương Lương. Từ đó, không còn hỏi thăm tin tức gia đình, thư từ cũng không liên lạc.
Thảo luận về post