Tiếp theo và hết
THIỀN TÔNG (Quyển Nhất) – HT. THÍCH THIỆN HOA
IV. ĐẠI THỪA THIỀN
Trong Thiền tôn tập I, chúng ta đã biết qua các loại thiền : Ngoại đạo thiền, Phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền và phương pháp tu luyện của họ. Trong tập này, chúng tôi sẽ dành riêng toàn tập để nói về Đại thừa thiền. Nội dung của tập này sẽ gồm những mục chính sau đây :
I. Các pháp môn của Đại thừa thiền
II. Sự truyền thừa của các Tổ trong phái Thiền tôn, ở Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam.
III. Các ma chướng trong lúc tu thiền
IV. Các kinh sách nói về thiền ?
Trước khi đi sâu vào các mục nói trên, chúng ta hãy hiểu qua thế nào là Đại thừa thiền ?
Đại thừa thiền là pháp tu thiền của bực Đại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông minh và lanh lợi tu. Những bực Đại thừa Bồ Tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền não thô trược, chỉ còn vi tế vô minh, nếu kiếp này gặp gặp được minh sư chỉ giáo cho phép tu Đại thừa thiền này, thì sẽ được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu tố căn bản của Đại thừa thiền là trí huệ. Thiền giả phải lấy trí huệ để tự quan sát tâm tánh. Nếu thiếu trí huệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Đại thừa thiền.
I. CÁC PHÁP THIỀN ĐỊNH CỦA ĐẠI THỪA
Các pháp thiền định của Đại thừa rất nhiều như : Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thể thiền, Thanh tịnh tịnh thiền, Tự tánh thanh tịnh thiền, Như Lai tối thượng thừa thiền, Đạt Ma tổ sư thiền. v.v…
Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền định thông thường của Đại thừa.
1) Sao gọi là Pháp hoa tam muội ?
Tam muội hay “Tam ma đề” là do chữ Phạn Samadhi phiên âm ra. Người Trung Hoa dịch là “Điều trực định”, nghĩa là khiến tâm điều hòa chánh trực, như như chẳng động, cũng có chỗ dịch là “chánh định” hay “chánh thọ”.
Sở dĩ gọi là “Pháp Hoa tam muội”, vì phép thiền này căn cứ theo kinh Pháp Hoa mà thành lập. Kinh chép : “Người muốn đặng Pháp Hoa tam muội, phải tu tập theo kinh Pháp Hoa, đọc tụng Đại thừa…”
Ngài Trí Giả Đại sư trong khi chép quyển “Pháp Hoa tam muội” có dạy phương pháp tu pháp tam muội, gồm có mười điều như sau :
1) Nghiêm tịnh đạo tràng; 2) Tịnh thân; 3) Tịnh nghiệp; 4) Cúng dường chư Phật; 5) Lễ Phật; 6) Sám hối sáu căn; 7) Đi nhiểu; 8) Tụng kinh; 9) Tọa thiền; 10) Chứng tướng.
2) Sao gọi là niệm Phật tam muội ?
Phương pháp này căn cứ theo kinh Ban châu niệm Phật. Hành giả thường niệm danh hiệu của Phật A Di Đà ở Tây phương, ngày đêm không dứt. Khi được tam muội rồi, hành giả thấy chư Phật hiện ra trước mắt, nghe Phật thuyết pháp ở bên tai, và thọ trì được vô lượng công đức.
3) Sao gọi là Giác ý tam muội ?
Phương pháp này căn cứ theo kinh Đại phẩm Bát Nhã. Hành giả tu pháp này, tâm ý giác ngộ tất cả pháp và được vô sanh nhẫn. (Đọc giả nào muốn rõ thêm, hãy xem lời thích luận của ngài Trí Giả Đại sư).
4) Sao gọi là Thủ lăng nghiêm tam muội ?
Phương pháp này căn cứ theo kinh Thủ lăng nghiêm. Hành giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thực thể là Như Lai tạng tâm mà tùy duyên biến hiện, như huyễn như hóa. Hiểu rõ các phép đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo ý ấy mà tham thiền nhập định, nên cũng gọi như huyễn tam muội.
5) Sao gọi là Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, v.v…?
Các món thiền như “Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền”, gồm cả thảy chín món và được gọi là Đại thừa thiền.
Sở dĩ gọi các món thiền này là Đại thừa thiền, vì các vị Bồ tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được các công hạnh rộng lớn, thẳm sâu không thể lường được.
6) Sao gọi là Trực chỉ thiền ?
Trực chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo.
7) Sao gọi là Như Lai thanh tịnh thiền ?
Như Lai thanh tịnh thiền là pháp thiền thanh tịnh của Như Lai. Như chúng ta đã biết, Đức Phật Thích Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham thiền sáu năm dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ Đề. Do đó, phép thiền này được gọi là “Như Lai thanh tịnh thiền”.
8) Sao gọi là Như Lai tối thượng thừa thiền ?
Đây là phép thiền siêu cao hơn tất cả phép thiền mà Đức Như Lai đã ứng dụng.
9) Sao gọi là Đạt Ma Tổ sư thiền ?
Như chúng ta đã biết, ngài Đạt Ma sau khi từ Ấn Độ qua Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín năm, tại chùa Thiếu Lâm để tham thiền. Đạt Ma Tổ sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu Lâm vậy.
Các phép thiền của Đại Thừa, như quý đọc giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu trung có thể chia làm hai loại lớn :
1) Một loại thường gọi là tam muội, căn cứ theo kinh sách của Phật tổ truyền dạy mà tu tập, có tu, có quán, có phương pháp nhất định, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, v.v…Các loại tam muội này vì có quy cũ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều.
2) Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn cứ theo kinh giáo, không có văn tự, tức là loại thiền “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, như các pháp “Trực chỉ thiền, Như Lai thanh tịnh thiền, Tự tánh thanh tịnh thiền, Như Lai tối thượng thừa thiền, Đạt Ma Tổ sư thiền, v.v…Với loại thiền này người ngộ trước dùng tâm giác ngộ của mình để ấn chứng cho người sau giác ngộ. Đó tức là loại thiền “Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật” : Vị minh sư dùng tâm mình để tiếp xúc với tâm của đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ tử; như dùng ngọn đèn sáng chói mà tâm mình đã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực tiếp của sự giác ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền này tức là loại thiền đã được truyền từ Đức Phật Thích Ca xuống cho đến ngài Lục Tổ. Đây là một lối “truyền đạo” hay “truyền đăng” trực tiếp, linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho một người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp.
Cách truyền đạt pháp thiền này lại có hai lối :
a) Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay “công án”, nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý nghĩa sâu xa, đối với người thường không hiểu được.
Khi một vị Tổ của phái thiền tôn này nhận thấy trong hàng đệ tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo, tiếp nối sự nghiệp của thiền tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ tử ấy một câu thoại đầu (một luận án, như bây giờ các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ tử này, đêm ngày tham cứu câu đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ sư mới ấn chứng cho.
b) Nhưng nhiều vị Tổ sư lại không trao cho đệ tử mình một câu thoại đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ lùng, người thường khó có thể hiểu được như : đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà, v.v…chẳng hạn như có một vị đệ tử đến cầu đạo với Tổ sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng thiền trượng (roi thiền) đánh đập vị đệ tử kia, để xem sự phản ứng của vị đệ tử ấy như thế nào. Do sự phản ứng ấy mà vị Tổ sư biết được vị đệ tử kia đã giác ngộ hay chưa.
Tóm lại, pháp thiền này rất là mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói : “thiền cơ huyền diệu” (máy thiền mầu nhiệm). Các vị Tổ sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho đệ tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài đối cơ lập pháp. Tất nhiên phương pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương pháp gì để truyền thọ.
Về sau cũng có người bắt chước những phương pháp như đánh, hét, v.v…nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì.
II. HỆ THỐNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC TỔ TRONG PHÁI THIỀN TÔN
TẠI ẤN ĐỘ
NGÀI MA HA CA DIẾP SƠ TỔ CỦA THIỀN TÔN Ở ẤN ĐỘ
Trong kinh Phạm Thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ “Thích nghi kê cổ” quyển nhất, có chép đại khái như sau : Khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Đại Phạm Thiên Vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen đưa lên để khai thị cho chúng (thiền cơ). Toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có ngài Ma Ha Ca Diếp là tỏ ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Đức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho ngài Ca Diếp được đắc truyền và làm Tổ thứ Nhất (Sơ tổ ở Ấn Độ). Phật tuyên bố như sau :
Nguyên văn chữ Hán :
“Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng,
Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng,
Vi diệu pháp môn, kim phú Ma Ha Ca Diếp”.
Dịch nghĩa :
Ta có “chánh pháp nhãn tạng”, cũng gọi là “Niết Bàn diệu tâm”, cũng tên là “thật tướng vô tướng” cũng gọi là “vi diệu pháp môn”, nay ta truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.
Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau :
Nguyên văn chữ Hán :
Pháp pháp bổn vô pháp
Vô pháp pháp diệt pháp
Kim phú vô pháp thời
Pháp hà tằng pháp.
Dịch nghĩa :
Các pháp vốn không pháp
Không pháp cũng là pháp
Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)
Vô pháp nào có pháp.
Đây là nguồn gốc phát khởi của thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện.
NGÀI A NAN NHỊ TỔ THIỀN TÔN TẠI ẤN ĐỘ
Một hôm ngài A Nan hỏi tổ Ca Diếp :
– Ngoài việc truyền y bát, Đức Thế Tôn còn truyền Pháp gì riêng cho Ngài nữa không ?
Tổ Ca Diếp gọi to :
– A Nan !
Ngài A Nan dạ !
Tổ dạy tiếp :
– Cây sào phướng trước cửa chùa ngã ! Ngài A Nan liền tỏ ngộ thiền cơ, nên được tổ Ca Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị Tổ thứ hai.
Từ ngài A Nan trở về sau, có thêm 26 vị tổ về thiền tôn nữa. Cộng cả ngài Ca Diếp và ngài A Nan, ở Ấn Độ có cả thảy là 28 vị tổ, thứ lớp tuần tự như sau :
1. Tổ Ma Ha Ca Diếp
2. Tổ A Nan
3. Tổ Thương Na Hòa Tu
4. Tổ Ưu Ba Cúc Đa
5. Tổ Đề Bà Đa
6. Tổ Di Già Ca
7. Tổ Bà Di Mật
8. Tổ Phật Đà Nan Đề
9. Tổ Phúc Già Mật Đa
10. Tổ Hiếp Tồn Giả
11. Tổ Phú Na Giạ Xa
12. Tổ Mã Minh
13. Tổ Cá Tỳ Hậu La
14. Tổ Long Thọ
15. Tổ Ca Na Đề Bà
16. Tổ La Hầu Đà La
17. Tổ Tăng Già Nan Đế
18. Tổ Dà Già Xá Đa
19. Tổ Lưu Ma La Đa
20. Tổ Xà Dạ Đa
21. Tổ Bà Tu Bàn Đầu
22. Tổ Ma Nọa La
23. Tổ Hạc Lặc Na
24. Tổ Liểu Sư Tử
25. Tổ Bà Xá Tú Đa
26. Tổ Bát Như Mật Đa
27. Tổ Bát Nhã Đa La
28. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
(Theo truyện Phú Pháp Tạng nhân duyên). Hai mươi tám vị Tổ này đã làm rực rỡ cho Phật giáo ở Ấn Độ, chứ không riêng gì cho Thiền Tôn. Phật giáo sau này được lan rộng trên hoàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị tổ này. Ngày nay nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này cũng chứng tỏ rằng phần lớn các vị tổ có tiếng tăm đều ở trong phái Thiền Tôn. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Độ, mà cả đến ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam nữa.
TẠI TRUNG HOA
1. NGÀI BỒ ĐỀ ĐẠT MA SƠ TỔ CỦA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA.
Sau khi được ngài Bát Nhã Đa La, vị Tổ thứ 27 của Thiền Tôn ở Ấn Độ, ấn chứng cho làm Tổ thứ 28; ngài Bồ Đề Đạt Ma ở lại Ấn Độ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của Sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo.
Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Đế (528 dl) trị vì. Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và sự tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức, bề ngoài, nên tổ Đạt Ma đã từ giã vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo. Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là “Đạt Ma tổ sư thiền”. Trong thời gian chín năm Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Đó cũng là một phương pháp để dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sinh tất cả vì đạo. Đó là ngài Thần Quang mà sau này được Tổ Đạt Ma ấn chứng cho làm cho làm tổ thứ hai của Thiền Tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả.
Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, Tổ Bồ Đề Đạt Ma còn truyền lại bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển rất có giá trị.
2. NGÀI HUỆ KHẢ (THẦN QUANG) VỊ TỔ THIỀN TÔN THỨ HAI Ở TRUNG HOA.
Ngài Thần Quang, nghe danh Tổ Đạt Ma đến cầu đạo, nhưng Tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng Tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình, dám xả thân cầu đạo, Ngài Thần Quang đã chặt đứt cánh tay của mình. Lúc bấy giờ Tổ Đạt Ma mới xoay lại hỏi :
– Ông đến đây để cầu gì ?
Ngài đáp :
– Con cầu pháp an tâm.
Tổ bảo :
– Ông đem tâm đến đây ta an cho.
Ngài thưa :
– Con tìm tâm không được.
Tổ dạy :
– Ta đã an tâm cho ông rồi đó !
Ngài liền ngộ đạo. Tổ Đạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho ngài Huệ Khả :
Nguyên văn chữ Hán :
Ngô bổn lại tự độ
Truyền pháp độ mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Dịch nghĩa :
Ta đến xứ Trung Hoa
Truyền pháp độ kê mê
Một bông trổ năm cánh
Kết quả tự nhiên thành
3. NGÀI TĂNG XÁNG VỊ TỔ THỨ BA CỦA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA.
Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho ngài Tăng Xáng làm vị Tổ sư thứ ba của Thiền Tôn ở Trung Hoa.
4. NGÀI ĐẠO TÍN VỊ TỔ THỨ TƯ CỦA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA.
Tổ Tăng Xáng truyền pháp cho ngài Đạo Tín là vị Tổ thứ tư. Từ tổ Đạo Tín, sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu :
a) Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai.
b) Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Đầu, cũng gọi là “Ngưu Đầu Thiền”.
5. NGÀI HOẰNG NHẪN VỊ TỔ THỨ NĂM CỦA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA.
Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây :
Một hôm Ngài Đạo Tín, vị tổ thứ tư Thiền Tôn, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được bao lâu, nên Tứ tổ dạy :
– Ta đã già, ông cũng già ! Nếu truyền pháp cho ông, ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo ? Vậy, nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho ! Ông già thưa :
– Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ đã tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được ?
Đức Tứ tổ dạy :
– Ta sẽ ở nán lại cõi đời chờ ông.
Vâng lời Tổ dạy, ông già đi vòng theo dòng suối, thấy có một cô gái ngồi giặt bên bờ. Ông già hỏi :
– Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không ?
Cô gái thưa :
– Ông hãy hỏi cha mẹ cháu
Ông già nói tiếp :
– Nếu có bằng lòng, tôi sẽ hỏi sau.
Cô gái trả lời :
– Dạ bằng lòng !
Được rồi, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác. Còn cô gái kia, không có chồng mà bổng nhiên có mang. Bị cha mẹ đuổi đánh, cô phải bỏ nhà đi xin ăn vất vả, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Đứa bé trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mở miệng cười.
Tổ nói :
– Ta đang trông đợi người đây !
Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý nói rằng : Tổ đã nhẫn nhục chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã nhẫn chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé.
Tổ Đạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị tổ thứ năm của Thiền Tôn. Sau khi truyền đạo xong, Tứ tổ Đạo Tín mới viên tịch. (Theo Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa).
6. NGÀI HUỆ NĂNG VỊ TỔ THỨ SÁU CỦA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA.
Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho nhà một phú ông, trong khi chờ đợi, Ngài lắng nghe chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, ngài liền ngộ đạo.
Đợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khen ngợi và hỏi rằng :
– Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy ? Tôi cũng muốn thọ trì tụng đọc như ông.
Phú Ông mách cho ngài :
– Tại núi Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ tổ, thường truyền pháp độ người. Ông nên đến đó mà cầu đạo.
Ngài trả lời :
– Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt vì còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao !
Phú Ông bảo :
– Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo thì hãy về cố gắng đốn củi cho thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia.
Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi đem đến bán cho Phú Ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.
Ngũ tổ thấy Ngài hỏi :
– Ông ở đâu đến và đến đây để cầu về việc gì ?
Ngài đáp :
– Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật.
Ngũ tổ thấy Ngài hình thù tuy kỳ dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn cho trong chúng biết, nên giả quở to rằng :
– Ông là người mọi rợ ở phương Nam, mà cầu thành Phật cái gì ?
Ngài Huệ Năng trả lời :
– Bạch Tổ sư, thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc.
Ngũ tổ sợ trong chúng để ý, lộ bí mật, nên chẳng hỏi han gì thêm nữa, mà truyền cho xuống nhà trù công quả giã gạo.
Từ đấy, Ngũ tổ không nhắc nhỡ gì đến Ngài nữa, và ngài Huệ Năng, ngày ngày cũng cứ siêng năng cặm cụi giã gạo.
Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình đã già, muốn tìm người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng :
– Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì ta sẽ ấn chứng và truyền pháp cho làm Tổ thứ Sáu.
Tin này được truyền ra rất mau chóng.
Trong chúng, mọi người đều đều nô nức, xôn xao bàn tán :
– Trong chúng, chỉ có Thượng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa cũng sẽ được truyền Tổ vị.
Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hộp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghỉ thầm : “Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không biết.
Nguyên văn chữ Hán :
“Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Dật sử nhá trần ai”.
Dịch nghĩa :
“Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường ngày hằng lau quét
Chớ cho dính bụi trần”.
Sáng ngày, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục :
– Đây rồi ! kế tổ vị đây rồi ! Nếu không phải thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa !
Nghe Tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, ngài Huệ Năng nói :
– Còn đứng ngoài cửa rào.
Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ :
– Đã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào !
Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo :
– Tôi cũng có một bài kệ, xin các ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ.
Một người liền hoan hỉ viết hộ.
Ngài Huệ Năng đọc bài kệ sau đây :
Nguyên văn chữ Hán :
“Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh cảnh đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhá trần ai ?”
Dịch nghĩa :
“Bồ đề vốn không cây
Tâm không phải đài gương
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi trần ?”
Nghe xong bài kệ, mọi người trong chúng đều kinh ngạc : Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc, thâm diệu như thế !
Ngũ tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của ngài Huệ Năng.
Một buổi chiều, Ngũ tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng :
– Gạo đã trắng chưa ?
Ngài Huệ Năng đáp :
– Bạch, gạo con giã đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng. Mật ý Ngài muốn nói : “Đạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền”.
Ngũ tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên (Ngũ tổ muốn bảo ngài Huệ Năng canh ba vào phòng). Đúng canh ba, ngài Huệ Năng vào phòng Ngũ tổ. Ngài được Ngũ tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương Nam ngay đêm hôm ấy, để truyền đạo (xem quyển Lục Tổ Huệ Năng).
Từ đó, Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Nam chủ trương về đốn ngộ; phương Bắc chủ trương về tiệm tu, nên gọi là “Nam đốn, Bắc tiệm”.
Sau đây là bản lược đồ về sáu vị tổ Thiền Tôn ở Trung Hoa :
Sơ tổ : Ngài Bồ Đề Đạt Ma
Nhị tổ : Ngài Huệ Khả (Thần Quang)
Tam tổ : Ngài Tăng Xáng
Tứ tổ : Ngài Đạo Tín
Ngũ tổ : Ngài Hoằng Nhẫn, Ngài Ngưu Đầu Thiền sư
Lục tổ : Ngài Huệ Năng, Ngài Thần Tú.
Từ Ngài Lục Tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ cũng không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền tôn không còn truyền thống nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây :
Hai phái và Năm dòng
Ngài Huệ Năng từ khi lên làm Lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi tiếng hơn hết là ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc, và ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Đàn Kinh). Hai ngài này mở đầu cho hai phái Thiền tôn là phái Nam Nhạc và phái Thanh Nguyên.
Phái Nam Nhạc về sau lại chia làm hai dòng là : Lâm Tế và Quy Ngưỡng.
Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là : Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.
1. Dòng Lâm Tế :
a/ Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế tuần tự như sau :
– Hoài Nhượng Thiền sư
– Đạo Nhứt Thiền sư (họ Mã, tục gọi là Mã Tổ)
– Bách Trượng Thiền sư (Hoài Hải)
– Huỳnh Nghiệt Thiền sư (Hy Vân)
– Lâm Tế Nghĩa huyền
b/ Sự truyền pháp (thiền cơ) của tôn Lâm Tế :
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền tôn thật khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hét to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư :
Để cầu giác ngộ, một hôm ngài Lâm Tế hỏi ngài Huỳnh Nghiệt :
– Sao gọi là đại ý Phật pháp ?
Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng đánh ngài Lâm Tế một cái. Ba lần ngài Lâm Tế hỏi, ba lần đều bị đánh như thế.
Ngài Lâm Tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với ngài Đại Ngu Thiền sư, nhờ thế ngài Lâm Tế mới ngộ được tôn chỉ của ngài Huỳnh Nghiệt.
Từ đó về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy.
Ngài Lâm Tế nói :
“Có khi hét một tiếng như bửu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử dậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét”. Bởi thế nên người đời gọi là “Lâm tế tứ yết” (bốn tiếng hét của Lâm tế).
Dòng Lâm tế về sau lại chia làm hai nhánh : Dương Kỵ và Huỳnh Long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thịnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tôn trong các đại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế.
2. Dòng Quy Ngưỡng :
Tổ Bách Trượng thiền sư truyền cho ngài Linh Hựu thiền sư ở núi Quy Sơn đất Đàm Châu. Ngài Linh Hựu truyền cho ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch.
Ngài Quy Ngưỡng là một vị thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được. Ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta đã lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng thiền tôn. Sự truyền đạo của Ngài cũng rất kỳ lạ. Mỗi khi có ai đến hỏi đạo thì ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ vạn, mà người được ngộ đạo.
3. Dòng Tào Động :
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau :
a/ Ngài Thanh Nguyên thiền sư
b/ Ngài Hy Thiên thiền sư, tức ngài Thạch Đầu Hòa thượng.
c/ Ngài Dược Sơn thiền sư
d/ Ngài Vân Nhâm thiền sư
đ/ Ngài Lương Giới thiền sư ở núi Đông Sơn
e/ Ngài Bổn Tịch thiền sư ở núi Tào Sơn
Ngài Vân Nhâm thiền sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho ngài Lương Giới (Đông Sơn); ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để truyền cho ngài Bổn Tịch (Tào Sơn).
4. Dòng Vân Môn :
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau :
a/ Ngài Thạch Đầu thiền sư
b/ Ngài Thiên Hoàng
c/ Ngài Long Đàm
d/ Ngài Đức Sơn
đ/ Ngài Tuyết Phong
e/ Ngài Vân Uyển thiền sư ở đất Thiều Châu, Vân Môn.
Cách truyền pháp của ngài Vân Uyển (Vân Môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý : ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ “Dám”. Nếu người cầu đạo còn ngần ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm : “Di”. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi phép quán của Ngài là “nhứt tự quán” (quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di).
5. Dòng Pháp Nhãn :
Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau :
a/ Ngài Tuyết Phong thiền sư
b/ Ngài Huyền Sa thiền sư
c/ Ngài Xa Hán thiền sư
d/ Ngài Vân Ích thiền sư
Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của ngài Vân Ích thiền sư là dùng sáu tướng trong kinh Hoa Nghiêm sau đây :
– Tổng tướng : tức là muốn nói đến chơn như nhất tâm.
– Biệt tướng : tức là các duyên sanh khởi từ chơn như nhất tâm.
– Đồng tướng : các pháp đều đồng như nhau.
– Dị tướng : tùy theo mỗi tướng không bình đẳng.
– Thành tướng : dựng lập ra cảnh giới.
– Hoại tướng : vị trí không đồng tức là hoại tướng.
TẠI VIỆT NAM
Như chúng ta đã biết, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt Nam Thiền tôn cũng được xem như là môn phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu.
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II tây lịch, do các vị danh Tăng người Ấn Độ và Trung Hoa, như các ngài Ma Ha Kỳ Vực, ngài Khương Tăng Hội (người Ấn Độ), ngài Mâu Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn. Vì Thiền tôn ở Việt Nam là do Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương Võ Đế (528), Tổ Bồ Đề Đạt Ma mới đưa vào. Vậy thì nhất định là Thiền tôn ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt Nam chứng minh. Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI) ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, lần đầu tiên truyền Thiền tôn vào Việt Nam, và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt Nam. Sau ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi cũng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền thiền tôn vào Việt Nam và nhờ đó, Việt Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tôn.
Dưới đây, chúng ta hãy tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy :
1. Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi :
a) Vị Sơ tổ Thiền tôn ở Việt Nam.
Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ là đệ tử ngài Tăng Xáng (tam tổ Thiền tôn).
Lần đầu tiên gặp tổ Tăng Xáng ở núi Tư không, thấy phong mạo của Tổ khác thường, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đảnh lễ ba lần mà Tổ vẫn ngồi lim dim đôi mắt, chứ không nói gì hết (thiền cơ). Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bổng thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong số những đệ tử xuất sắc của Tổ Tăng Xáng.
Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương Nam để truyền đạo. Ngài vâng lịnh sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì ở chùa Pháp Vân ở tỉnh Hà Đông.
Khi sắp thị tịch Ngài gọi đệ tử là ngài Pháp Hiển vào phòng, phú chúc rằng :
“Tâm ấn cửa Phật, không có thể mập mờ được. Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến, không đi, không được, không mất, không phải đồng nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt, không xa cách không phải không xa cách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (tâm ấn) mà thôi.
Chư Phật trong ba đời do đó (tâm ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loài hữu tình vô tình cũng đều như thế cả.
Khi đệ tam Tổ Tăng Xáng ấn chứng “tâm ấn” cho ta, đã bảo ta rằng : “Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì”.
Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền ký ấy, Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta.
Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !”
Dạy xong, Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Đệ tử trà tỳ (thêu) rồi thu xá lợi xây tháp để thờ.
Về sau, vua Lý Thái Tôn có bài kệ truy tán ngài như sau :
Sáng tự lai Nam quốc
Văn quân cữu tập thiên
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạn Lăng già nguyệt
Phân phân bát nhã liên
Hà thời hạnh tương kiến
Tương dữ thoại tùng huyền
Dịch nghĩa :
Mở lối qua nước Việt
Nghe ngài thông đạo Thiền
Nguồn tâm thông một mạch
Cõi Phật rộng quanh miền
Lăng già ngời bóng nguyệt
Bát nhã nứt mùi sen
Biết bao giờ được gặp
Đàm đạo lẽ thâm huyền
b) Ngài Pháp Hiển thiền sư, vị Tổ thứ hai của Thiền tôn Việt Nam.
Sau ki tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi tịch, ngài Pháp Hiển là vị tổ thứ hai của phái Thiền tôn Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài họ Đỗ, quê ở quận Chu Diên (Sơn Tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp Vân, tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi thây Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt mà hỏi :
– Chú họ gì ?
Ngài Pháp Hiển hỏi lại :
– Hòa thượng họ gì ?
Tổ lại hỏi :
– Chú không có họ à ?
Ngài trả lời :
– Sao lại không có ! Nhưng đố Hòa thượng biết ?
Tổ quát lên :
– Biết để làm gì ?
Ngài Pháp Hiển chợt hiểu ý Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ tử và sau được truyền tâm ấn.
Được ít lâu sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ Sơn tu thiền định, những loài cầm thú thường quấn quít chung quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Đệ tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thịnh nhất. Đó cũng nhờ công đức hoằng hóa của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi và ngài Pháp Hiển. Về sau phái này cũng có nhiều vị thiền sư xuất sắc như ngài Pháp Thuận, Vạn Hạnh, v.v…
2. Phái Vô ngôn thông :
a) Vị Sơ tổ của phái Thiền tôn thứ hai ở Việt Nam.
Ngài họ Trịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia ở chùa Sông Lâm (Triết Giang bây giờ). Tính ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu cho ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ).
Khi ngài mới đến yết kiến Bách Trượng thiền sư, gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng :
– Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Đại thừa ?
Bách Trượng thiền sư dạy rằng :
– Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nếu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng).
Nghe được câu ấy, ngài Vô Ngôn Thông tự nhiên ngộ đạo. Năm 820, ngài qua Việt Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh). Ngài ngồi xây mặt vào vách, trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc Cao tăng đắc đạo trong phái Thiền tôn, nên tôn thờ Ngài làm thầy.
Trước khi tịch, ngài gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo :
– Ngày xưa Tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng :
“Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh,
Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú
Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại
Phi ngộ thượng căn, thận vật khinh hứa”.
Nghĩa là : “Hết thảy các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chỗ trú. Nếu hiểu được tâm địa ấy, thì làm việc gì cũng không trở ngại. Cái tâm pháp ấy, nếu không gặp được bậc thượng căn, chớ nên truyền bậy”.
“Đó là lời dặn của người xưa, nay ta cũng dặn lại câu ấy”.
Nói xong ngài chắp tay mà tịch.
b) Vị nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông.
Cảm Thành thiền sư : Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh).
Khi ngài Vô ngôn thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền nối đạo, nên ở lại. Và ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở ngài Vô ngôn thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trể nãi. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó ngài Vô ngôn thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Cảm Thành.
Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của ngài Vô Ngô Thông. Một hôm có vị đệ tử hỏi Ngài :
– Thế nào là Phật ?
Ngài trả lời :
– Chỗ nào cũng là Phật cả.
Vị đệ tử lại hỏi :
– Thế nào là tâm của Phật ?
Ngài trả lời :
– Không hề che đậy chỗ nào.
Đây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái lối truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa cao thâm vô cùng.
Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư.
c) Vị tam tổ của phái Vô Ngôn Thông.
Ngài Thiện Hội thiền sư : Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành Thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm. Một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy :
– Trong kinh Phật có dạy : “Đức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng “tâm tức là Phật, Phật tức là tâm” là nghĩa làm sao ? Thật đệ tử không hiểu, xin thầy dạy rõ cho.
Cảm Thành thiền sư nói :
– Ngươi bảo trong kinh Phật nói thế là ai nói đó ?
– Vậy lời ấy không phải Phật thuyết sao ?
– Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy : “Ta trú ở thế gian dạy chúng sinh 49 năm, chưa từng đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ”. Vì theo chánh đạo, nếu lấy văn tự làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, cũng lại là ma vậy.
– Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy, cái gì là Phật, cái gì là không phải Phật ?
– Ngài xưa có người hỏi Mã Tổ rằng : “Nếu bảo tâm ấy là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật ?” Mã Tổ trả lời : “Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào đấy cho tôi xem ?” Người ấy không chỉ được. Mã Tổ lại tiếp : “Đạt được thì khắp mọi nơi chỗ nào cũng là Phật, mà không đạt được thì cứ sai lầm đi mãi mãi”. Thế là chỉ vì một lời nói nó che đi mà thành ra sai lầm đó thôi. Ngươi đã hiểu chưa ?
Ngài Thiện Hội trả lời :
– Nếu vậy, đệ tử hiểu rồi.
– Ngươi hiểu thế nào ?
– Đệ tử hiểu rằng khắp các mọi nơi chỗ nào cũng là tâm Phật cả.
Nói xong Thiện Hội thiền sư sụp xuống lạy.
Ngài Cảm Thành nói :
– Thế là ngươi hiểu tới nơi rồi đó.
Do sự lãnh hội mau chóng đó mà Ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là “khéo hiểu”.
Trên đây là một vài câu chuyện về đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tôn.
Sự truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Đến đời cư sĩ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng.
3. Phái Thảo Đường :
Năm Kỷ Dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số các quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản “Ngữ lục” của mình bị một tù binh sửa chữa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy chính là ngài Thảo Đường, đệ tử của ngài Tuyết Đậu Minh Giác ở Trung Hoa.
Khi biết tung tích của Thảo Đường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Đường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Đệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Đường lập ra thành một phái Thiền tôn thứ ba ở Việt Nam. Phái Thảo Đường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thảy được mười chín vị.
4. Phái Trúc Lâm :
Đệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308), Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử nhưng Ngài mới đi nửa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giữ vững nền độc lập của nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc Nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là “Hương Vân Đại Đầu Đà” lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi.
Trong các phái Thiền tôn ở Việt Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như ngài Pháp Loa tôn sư, ngài Huyền Quang tôn sư, v.v…
5. Phái Lâm Tế :
Phái Lâm Tế do ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Định) lập chùa Thập Pháp Di Đà, mở trường truyền dạy. Sau Ngài ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Đồng.
Sau một thời gian truyền đạo ở Việt Nam Ngài phụng mệnh vua Anh Tôn trở về Trung Hoa tìm mời danh Tăng và cung thỉnh pháp tượng pháp khí. Ngài thỉnh được Hòa Thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác trở về Việt Nam mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài giữ chức Trụ trì chùa Hà Trung.
Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền lại bài kệ sau đây :
Tịch tịch kính vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không
Đại ý : Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như bức gương sáng không bụi, như hạt minh châu trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền các sự vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân hiển hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng, mà không phải là không, tức là lý “chơn không diệu hữu”.
Xét trong “Lịch truyền tổ đồ” thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là Sơ tổ.
6. Phái Liểu Quán :
Phái Liểu Quán xuất phát từ Liểu Quán Hòa Thượng. Ngài Liểu Quán quê ở Phú Yên (Sông Cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa di với ngài Thạch Liêm Hòa Thượng. Năm 1702, Ngài đến Long Sơn cầu học pháp tham thiền với ngài Tử Dung Hòa Thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Đàm Huế, người Trung Hoa).
Tổ Tử Dung dạy Ngài tham cứu câu : “Vạn pháp quy nhứt, nhứt quy hà xứ”, (muôn pháp về một, một về đâu ?). Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền Đăng Lục, thấy có câu : “Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ”. Ngài liền tỏ ngộ, năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bệnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng : “Nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây”.
Thấy môn đồ khóc, Ngài dạy rằng : “Các người khóc làm gì ? Các Đức Phật ra đời còn nhập Niết Bàn. Ta nay đi đến rõ ràng, về có chỗ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm”.
Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây :
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không, sắc sắc diệu dung thông
Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý
Hà tất bôn ba vấn tổ tông.
Dịch nghĩa :
Ngoài bảy mươi năm trong thế giới
Không không, sắc sắc thảy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ,
Nào phải ân cần hỏi tổ tông.
Viết xong, ngài bảo môn đồ :
– Sau khi ta đi, các người phải nghĩ cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta.
Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742), vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và từ biệt môn đồ.
Đến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rõ ràng điểm này : Như chúng tôi đã nói ở đoạn trước, Thiền tôn do người Việt sáng lập chỉ có một phái độc nhất do vua Trần Nhân Tôn làm Sơ tổ là phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng đến đây, chúng ta lại thấy phát xuất một phái nữa là phái Liểu Quán, do ngài Liểu Quán một danh tăng Việt Nam chủ xướng. Như vậy có mâu thuẩn với sự nhận xét ở trên không ? Thật ra, so với các phái Thiền tôn khác ở Việt Nam, thì phái Liểu Quán chỉ là một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh ở miền Trung Việt.
Vả lại, ngài Liểu Quán cũng là đệ tử của ngài Tử Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm Tế. Do đó, phái Liểu Quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn gốc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm Tế mà thôi.
*
III. CÁC MA CHƯỚNG TRONG LÚC TU THIỀN
Chúng tôi xin trích hết đoạn “Ngũ ấm ma” trong kinh Lăng Nghiêm, để giúp cho quý vị tu thiền, biết trước những điều chướng ngại để đối trị.
50 MÓN MA CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA)
“Thuyết pháp gần xong, Đức Như Lai đứng dậy, tay vịn ghế thất bửu, gọi ngài A Nan và đại chúng dạy thêm rằng :
– Các ông chưa rõ trên đường tu hành, còn phải gặp nhiều cảnh ma rất nguy hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm con, bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ chín chắn chỉ dạy cho.
Này A Nan ! Tất cả chúng sanh cùng với mười phương chư Phật, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng, nên sanh ra mười phương hư không và thế giới nhiều như vi trần, nhưng mười phương hư không và hằng sa thế giới đó đều sanh ở trong chơn tâm của các ông, chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong trời xanh. Nếu người ngộ được chơn tâm rồi thì mười phương hư không và thế giới đều tiêu hết.
Bởi các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ bị tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần thông biến hóa, chỉ chưa được lậu tận thông.
Mặc dù chúng đủ năm phép thần thông và sức mạnh, song vẫn còn ở trong vòng trần lao; nếu các ông trong khi tu thiền, tâm được thanh tịnh sáng suốt, không vọng động, thì chúng ma kia không làm sao hại được. Cũng như dao chặt xuống nước, gió thổi ánh sáng, hoàn toàn không dính líu gì. Chúng ma kia phải lần lần tiêu diệt như băng bị nước nóng chế vào và tối tăm bị ánh sáng phá trừ. Chỉ lo một điều là các ông cũng như chủ nhà, nếu chủ nhà mê muội rồi thì các ma chướng kia như khách dễ bề nhiễu hại rồi; các ông trở làm con cái của ma, sau thành người ma.
Ma Đăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm cho ông phá một giới trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu, trở thành một người dân trắng, không thể cầu cứu với ai được.
MƯỜI MÓN MA VỀ SẮC ẤM
1/ Thân thể không bị chướng ngại.
Này A Nan, người trong khi tu thiền do sức dụng công, nên tâm tánh được nhiệm mầu sáng suốt, tự thấy thân thể mình trong giây phút qua lại tự tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì dụng công tu luyện nên vọng tâm tạm hiện ra các việc như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu sanh tâm nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
2/ Lượm bỏ trùng độc trong thân.
A Nan, hành giả trong lúc dụng công tu thiền, thoạt thấy thân thể mình trong sáng, các loài trùng độc, sên bò qua lại, rồi lượm bỏ ra ngoài mà thân không đau đớn. Vì dụng công tu luyện nên vọng tâm tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma cám dỗ.
3/ Nghe trong hư không có tiếng nói pháp.
Hành giả trong lúc tu thiền, nghe trong hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe Thánh, Hiền, Tiên, Phật trong mười phương thế giới đều nói ra nghĩa lý nhiệm mầu. Đây vì hành giả dụng công tu luyện nên tự tâm biến hiện ra cảnh giới như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma ám ảnh.
4/ Thấy Phật hiện và hoa sen trổ.
Người tu thiền định, khi tâm thanh tịnh rồi, tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ hành giả thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các vật loại hóa thành Phật cả, lại thấy đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, các đức Phật ngồi xung quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất hiện. Đây do hành giả dụng công tu thiền, nên thấy có các cảnh tạm hiện ra như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
5/ Thấy các vật báu đầy cả hư không.
Người trong khi tu thiền thấy mười phương hư không đều thành bảy báu, nào màu xanh, sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số, mà chẳng chướng ngại nhau. Đây do lúc tu thiền, vì hành giả dụng công đè nén vọng niệm thái quá, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
6/ Thấy ban đêm như ban ngày.
Người tu thiền định, do tâm yên tịnh nên phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ, mặc dù nửa đêm, ở trong nhà tối, người ấy vẫn thấy rõ hết cả mọi vật, không khác chi ban ngày. Vì hành giả dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
7/ Thân thể không biết đau.
Người tu thiền định đến khi tâm tánh được rỗng không, thì thân thể chẳng biết đau. Lúc bấy giờ người ấy lửa đốt không cháy, dao chặt không đau. Đây do sức dụng tâm tu luyện của hành giả nên tạm được như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
8/ Thấy cảnh giới Phật hiện khắp nơi.
Người tu thiền định do dụng công cùng tột, nên thấy mười phương núi sông toàn cả thế giới đều biến thành cõi Phật, đủ cả bảy món báu chiếu sáng khắp giáp. Hành giả lại còn thấy hằng sa chư Phật ở trong cung điện tốt đẹp hiện đầy cả hư không; trông lên thì thấy các cung trời, xem trở xuống lại thấy hết các cõi địa ngục đều không có chướng ngại. Đây do lúc tu thiền, vì hành giả ngưng vọng tưởng lâu ngày, nên nó hóa hiện như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào đường tà.
9/ Ban đêm thấy, nghe được phương xa.
Trong khi tu thiền, do tâm tham cứu sâu xa, nên trong lúc giữa đêm hành giả thấy được nào là chợ búa, đường xá, bà con họ hàng ở các phương xa, hoặc nghe được tiếng nói. Đây bởi hành giả kiềm thúc vọng tâm thái quá, nên tạm hiện ra như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa vào đường tà.
10/ Thân hình biến hóa, nói pháp thông suốt.
Trong khi tu thiền, hành giả dụng tâm tham cứu cùng tột, nên thấy có các vị thiện tri thức, chỉ trong giây phút mà thân hình biến hóa nhiều cách. Đây nhơn trong khi tu thiền, hành giả sanh tâm chấp trước, nên bị ma ám ảnh, làm cho người này thông suốt nghĩa mầu, nói pháp vô ngại, không phải chứng Thánh; nếu hành giả chẳng chấp trước, cảnh ma nầy lần lần tiêu; còn cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.
TÓM LẠI
Này A Nan ! Mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá trừ sắc ấm, nên biến hiện ra các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh ấy, hành giả mê lầm không biết, cho mình đã chứng Thánh, thì bị ma ám ảnh, rồi sanh ra đại vọng ngữ, cho mình thành đạo chứng quả v.v…Sau khi chết rồi đọa vào địa ngục vô gián. Vậy khi ta nhập diệt rồi các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này, giảng dạy cho người tu hành đời sau, bảo hộ người tu hành đặng đạo quả, chớ để cho họ bị thiên ma nhiễu hại.
MƯỜI MÓN MA VỀ THỌ ẤM
1/ Thấy loài vật thương khóc.
– Này A Nan, người tu thiền định khi phá trừ sắc ấm rồi, tâm trí sáng suốt; do hành giả dụng công dằn ép các vọng tưởng thái quá, nên phát sanh lòng thương xót các loài vật vô cùng, cho đến thấy loài mòng, muỗi cũng thương như con ruột, thương cho đến nỗi sa nước mắt khóc ròng. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu hết, không có hại chi; còn mê lầm không biết, thì bị ma sầu bi ám ảnh vào tâm, rồi thấy người tự khóc ròng, tâm mất chánh định, sau khi chết rồi đọa vào cảnh ma.
2/ Chí dõng mãnh bằng Phật.
Này A Nan, người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, thấy có nhiều điều linh ứng và những cảnh tốt đẹp hiện ra. Vì trong lòng cảm khích khái quá, nên hành giả phát tâm đại dõng mãnh, lập chí đồng với chư Phật, không chịu trãi qua ba vô số kiếp. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu diệt; còn mê lầm không biết, cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, thấy người hay khoe khoang hống hách, ngã mạn không ai bằng, cho đến trên thấy không có Phật, dưới thấy không có người, mất chánh định sau khi chết rồi đọa vào ác đạo.
3/ Tâm nghĩ tưởng khô khan.
Lại nữa, người tu thiền định, khi địa vị cũ đã qua khỏi, địa vị mới chưa chứng, lúc ấy bơ vơ giữa chừng, vì trí lực suy kém, nên trong tâm sanh ra rất khô khan, luôn luôn nhớ nghĩ vẫn vơ, rồi tự cho đó là tinh tấn. Đây vì trong lúc tu thiền, không có đủ trí tuệ sáng suốt để phán đoán. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết, cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh vào tâm, sớm chiều bốc quăng trái tim của mình mất chánh định, chết rồi đọa vào ác đạo.
4/ Đặng chút ít cho là đầy đủ.
Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, vì dùng huệ nhiều hơn định, mất sự thăng bằng, nên gặp những cảnh thù thắng hiện ra, sanh lòng nghi ngờ cho là đức Phật Tỳ Lô Giá Na, mới đặng chút ít cho là đầy đủ. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh, khi gặp người tự xưng : “Ta đặng đạo vô thượng Bồ đề”, sẽ mất chánh định, sau đọa vào đường ma.
5/ Tâm buồn rầu vô hạn.
Người tu thiền định, khi cảnh cũ đã mất, địa vị mới chưa chứng, tự thấy bơ vơ; gặp cảnh gian nan nguy hiểm, sanh tâm buồn rầu vô hạn, như ngồi trên chông sắt, như uống thuốc độc, tâm chẳng muốn sống, thường cầu xin người khác giết giúp thân mạng mình, đặng sớm được giải thoát. Đây là do trong khi tu hành, hành giả thiếu phương tiện để lướt qua những cảnh ấy. Nếu liễu ngộ thì không hại; còn mê lầm không biết, hành giả cho mình chứng Thánh, thì bị ma ưu sầu ám ảnh, rồi tự cầm gươm dao lóc lấy thịt mình, ưa bỏ thân mạng, thường hay lo rầu hoặc vào ở núi non rừng rú, không muốn thấy người, mất tâm chánh định, sau chết đọa vào đường ma.
6/ Vui cười không thôi.
Người tu thiền định khi tâm được thanh tịnh an ổn rồi, bỗng nhiên sanh ra vui mừng vô hạn không thể ngăn được. Nếu hiểu biết thời không hại, còn mê lầm cho mình chứng Thánh, thì bị ma nhập vào tâm phủ, thấy người cười hoài, đi trên đường sá một mình ca múa, tự cho rằng : “Ta đã đặng vô ngại giải thoát”, mất chánh định, sẽ đọa vào đường tà.
7/ Sanh đại ngã mạn.
Người tu thiền định khi thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, tự cho mình được như thế là đầy đủ rồi, sanh tâm đại ngã mạn, đối với mười phương chư Phật còn khinh khi, huống hồ là Thinh văn, Duyên giác. Nếu hiểu ngộ thì chẳng hại, còn mê lầm không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma đại ngã mạn nhập tâm, không lạy Phật tổ, hủy hoại kinh tượng. Người ấy thường nói với tín đồ rằng : “Phật bằng cây, đất, đồng, chì; còn kinh tượng là giấy mực, có gì mà kính lạy; nhục thân này mới là chân thật thường còn, sao chẳng cung kính, thật là điên đảo”. Tín đồ nghe rồi tin theo, đốt kinh chôn Phật. Người làm cho chúng sanh nghi lầm như thế, sau khi chết rồi bị đọa vào địa ngục vô gián.
8/ Tâm sanh khinh an.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm sanh ra vô lượng khinh an, rồi tự cho mình đã chứng Thánh, đặng đại tự tại. Nếu hành giả hiểu biết thì không hại; còn mê lầm không biết thì bị ma nhập tâm, rồi tự cho mình đã đầy đủ, không cần tu tấn, mất chánh định, sau khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
9/ Chấp không.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm rỗng sáng, rồi sanh ra chấp đoạn diệt, bác không nhân quả, không tội phước, tất cả đều không. Nếu hành giả hiểu biết thời không hại, còn mê lầm không biết chấp mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi chê bai người trì giới cho là tu hạnh Tiểu thừa, tự xưng mình là Bồ tát ngộ lý chơn không rồi, không còn trì giới và phạm giới nữa, vẫn ăn thịt uống rượu làm những việc tà dục. Do thần lực của ma làm cho tín đồ say mê, thương yêu cung phụng, luôn luôn trung thành, chẳng sanh lòng nghi ngờ hủy báng. Vì ma nhập lâu ngày làm cho người ấy phát điên, đến đổi ăn uống những đồ nhơ uế mà cho cũng như là uống rượu ăn thịt, phá các giới cấm của Phật, hoàn toàn chấp không, làm mất chánh kiến của mình, sau khi chết rồi đọa vào đường tà.
10/ Vì quá tham ái nên sanh ra cuồng.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, sanh rất nhiều ái dục, đến nổi phát cuồng. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh đó hết dần, còn mê lầm thì không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma nhập tâm, rồi khuyến hóa người đời bình đẳng hành dục; bảo họ rằng : “hành dục là đạo Bồ đề, người hành dâm dục là duy trì chánh pháp”. Do thần lực của ma làm cho người cuồng kia chinh phục được cả ngàn muôn người, đến chừng ma nhàm chán, bỏ người tu thiền kia, lúc bấy giờ hành giả không còn oai đức gì nữa, bị luật nước giam cầm, đến khi lâm chung đọa vào địa ngục vô gián.
TÓM LẠI
A Nan ! mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá trừ thọ ấm, nên tự hiện ra các cảnh như vậy. Nếu hành giả mê lầm không biết, cho rằng chứng Thánh, thì bị ma dựa vào, làm nhiễu hại đến thế, chết rồi đọa vào địa ngục vô gián.
Sau khi ta nhập diệt, các ông nên đem những lời chỉ bảo của ta đây mà truyền dạy cho chúng sinh đời sau, bảo hộ người tu hành được thành đạo Bồ đề, chớ để cho họ gặp các loài ma chướng làm hại, mà phải bị đọa vào đường ác.
MƯỜI MÓN MA VỀ TƯỞNG ẤM
1/ Tham cầu diệu dụng.
A Nan, người tu thiền định, khi phát minh được diệu dụng rồi, lại khởi tâm tham cầu những việc diệu dụng và linh nghiệm. Khi đó thiên ma được biết, gặp dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, cũng thường nói ra kinh pháp. Trong giây phút, thân hình người bị nhập kia, biến hiện ra ông thầy, cô ni, vị Đế Thích hay người phụ nữ v.v…hoặc ở trong nhà tối, từ nơi thân họ chiếu ra hào quang sáng ánh. Người đời lầm cho là Bồ tát thật, rồi tin nghe theo lời ma giáo hóa, sanh tâm buông lung, phá giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Người này ưa nói những điềm tai biến lạ lùng, hoặc nói chỗ kia có Phật ra đời, năm nào nổi đao binh giặc giã, năm nào có hỏa hoạn v.v…khủng bố tinh thần dân chúng, khiến cho người hao tài tốn của. Đến khi ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị giam cầm. Các ông nếu biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào ác đạo.
2/ Tham cầu du ngoạn.
A Nan, hành giả khi tu thiền, trong tâm muốn xuất thân dạo chơi. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần hiểu biết, được dịp thuận tiện nhiễu hại, nên nó xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự nói mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, miệng cũng nói kinh pháp thông suốt, làm cho những người nghe đều tự thấy thân mình hóa ra sắc vàng sáng rỡ, ngồi trên tòa sen báu, đặng những điều chưa từng có, người đời lầm tưởng là Bồ tát thị hiện. Người bị ma nhập kia lại dạy người phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục, miệng ưa nói chuyện chư Phật giáng thế, như : ở xứ kia, ông đó là đức Phật nào thị hiện. Người nọ là vị Bồ tát chi thị hiện v.v…làm cho người thấy, nghe sanh lòng khao khát, tâm tà kiến thêm mạnh, giống trí tiêu mòn. Đến lúc ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập ấy đều bị bắt cả.
Các ông nếu sớm giác ngộ thì khỏi luân hồi, còn mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục.
3/ Cầu ngộ chơn lý.
Lại nữa, người tu thiền định trong tâm mong cầu ngộ chơn lý. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất hồn nhập vào cho người, mà người tự không biết, cho rằng ta đặng đạo vô thượng Niết bàn, miệng cũng nói kinh pháp, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp, mà tâm tự khai ngộ, biết được việc nhiều đời trước, hoặc biết được tâm tánh người, hoặc thấy các cảnh địa ngục, biết trước những họa phước ở nhơn gian, miệng tự đọc kinh hay nói kệ, mỗi người đều tự vui mừng, cho là đặng những việc chưa từng có. Người đời mê lầm cho là Bồ tát thị hiện. Ma kia lại ưa nói : “Phật có lớn nhỏ, Phật thiệt, Phật giả, Phật nam, Phật nữ, đức Phật kia là đức Phật trước, đức Phật nọ là đức Phật sau; Bồ tát cũng vậy”, làm cho người mất chánh tín lại sanh tà kiến, tâm tánh buông lung, phá giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Đến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thì khỏi bị luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục.
4/ Móng tâm muốn biết nguồn gốc của muôn người.
Lại nữa, người tu thiền định, khi ở trong định, móng tâm muốn biết cùng tột căn nguyên của muôn vật, thỉ chung sanh hóa thế nào. Khi đó Thiên ma biết ý muốn, gặp việc thuận tiện để khuấy nhiễu, nên xuất hồn đến nhập cho người, mà người bị nhập kia lại không biết, cho mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, cũng thường nói kinh pháp. Chúng ma kia dùng oai thần nhiếp phục quần chúng, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp mà trong lòng đã tự kính phục. Chúng ma nói : “Thân thịt hiện tiền đây là Bồ đề Niết bàn, là pháp thân của Phật”. Chúng ma lại nói : “Cha cha con con tiếp nối sanh nhau, đó là pháp thân thường trụ bất diệt”. Và thường nói : “mắt, tai, mũi, lưỡi là cảnh tịnh độ, nam căn và nữ căn tức là Bồ đề Niết bàn”. Những người mê lầm không biết tưởng là Bồ tát thị hiện, tin tưởng quy y theo, cho là một đấng hy hữu chưa từng có. Mất tâm chánh tín, phá giới luật của Phật, âm thầm làm hạnh tham dục. Đến lúc ma kia nhàm chán bỏ đi rồi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông nếu biết trước thì khỏi luân hồi, còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
5/ Tham cầu cảm ứng linh nghiệm.
Người tu thiền định vì móng tâm tham cầu sự cảm ứng linh nghiệm, nên Thiên ma biết được ý muốn, nó xuất hồn đến gá vào người, mà người kia không biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, cũng thường nói kinh pháp. Ma lại dùng thần lực khiến cho những người nghe pháp đều thấy thân thể người bị nó nhập kia già nua như người trăm ngàn tuổi, sanh lòng thương mến, đêm ngày hầu hạ không biết mõi mệt, và tứ sự cúng dường. Nó lại làm cho người kính trọng là vị Tiên sư hay Thiện tri thức. Đối với người, nó ưa nói việc huyền ảo như : “Đời trước ta tế độ người kia, người nọ. Đời trước người kia là anh em hay vợ con của ta, đời nay ta tế độ, để cùng nhau sẽ sanh về thế giới kia và cúng dường đức Phật nọ”; hoặc nói : “Có cõi trời Đại quang minh, tất cả các đức Phật đều ở đó”. Những người mê muội không biết, lầm cho là Bồ tát thị hiện, tin tưởng kính trọng vô cùng, mất tâm chánh tín, phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục. Đến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi, còn tin tưởng nghe theo thì đọa vào địa ngục vô gián.
6/ Tham cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch.
Người tu thiền định, khép mình nơi khổ hạnh tham cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch. Khi đó Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất hồn nhập vào người, mà người kia không biết, cho mình chứng đạo vô thượng Niết bàn, cũng thường hay nói pháp. Ma dùng thần lực khiến cho các người nghe đều biết được đời trước của mình. Hoặc trong chỗ đông người, nó chỉ một người nào đó nói rằng : “Người này chưa chết, mà đã thành súc sanh”. Nói rồi, ma nó bảo một người khác đạp sau cái đuôi, thì người kia biến thành súc sanh, đứng dậy không được, làm cho đồ chúng hết sức kính phục. Có ai vừa móng tâm niệm gì, thì ma nó liền biết và nói ra ngay. Ngoài giới luật của Phật, chúng còn giữ thêm những điều khổ hạnh, phỉ báng các thầy Tỳ kheo, mắng nhiếc tín đồ, làm tiết lộ bí mật của người mà không sợ người hiềm ghét, thường nói những việc họa phước sắp đến, không sai một mảy. Đến lúc ma kia nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thời không vào luân hồi; còn mê mờ tin theo thì bị đọa vào địa ngục vô gián.
7/ Tham cầu biết kiếp trước.
Người trong khi tu thiền định, móng tâm tham cầu biết kiếp trước của mình. Khi đó Thiên ma hiểu biết, gặp dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia không biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, cũng thường nói kinh pháp, hoặc làm cho người tình cờ đặng châu báu. Nó hóa ra một con vật ngậm hột châu hay những vật kỳ quái đem đến đưa cho người. Nó chỉ ăn rau rác đơn sơ, không dùng đồ ngon quý, có khi mỗi ngày chỉ ăn một hột mè, hột bắp, mà thân hình vẫn mập tốt. Chúng thường nói : “Xứ kia có kho báu, chổ nọ có các vị Thánh hiền ẩn”. Chúng làm cho người thấy những điều kỳ dị, hoặc nói những việc tham dục, phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục. Đến khi ma kia nhàm bỏ rồi, thì thầy trò người bị nhập đều bị bắt cả. Các ông biết trước thì khỏi luân hồi; còn mê lầm tin theo, thì đọa vào địa ngục.
8/ Tham cầu thần thông.
Người tu thiền định, móng tâm muốn được thần thông biến hóa. Khi đó Thiên ma, nên xuất hồn nhập cho người, mà người không biết, tự cho rằng : “Đặng đạo vô thượng Bồ đề”. Miệng nói kinh pháp và một tay cầm lửa, một tay rứt ánh sáng phân phát để trên đầu thính giả. Mỗi người đều thấy trên đầu có ánh sáng dài đến vài thước, mà chẳng biết nóng; hoặc đi trên nước hay ngồi trên hư không vẫn tự tại; hoặc vào trong bình, vô trong đãy (bọc), đi ngang qua vách tường, mà không bị chướng ngại. Chỉ trừ khi đối với binh đao, thì họ không tự tại. Họ tự xưng là Phật mà thân mặc đồ thế gian, thọ các thầy Tỳ kheo lễ bái, chê bai người tham thiền và trì giới, mắng nhiếc đồ chúng, làm tiết lộ việc nhà người mà không sợ người giận hờn. Họ thường nói với người : “Ta đặng thần thông tự tại”, hoặc làm cho người thấy được cõi Phật (ma hiện ra cõi Phật) đem những điều dở hèn làm việc truyền đạo và khen ngợi việc hành dục. Đến lúc ma kia nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông biết trước thời khỏi bị luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
9/ Tham cầu không không.
Người khi tu thiền định, tâm ưa nhập diệt, tham cầu không không. Khi ấy Thiên ma liền biết, đặng dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập cho người, mà người kia chẳng biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, miệng nói kinh pháp. Hoặc ở trong chỗ đông người, người ấy tự biến mất, không ai thấy được, rồi tình cờ từ trên hư không hiện ra, khi ẩn khi hiện thần diệu vô cùng, hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly, khi duỗi tay chân ra thì thơm nực mùi hương chiên đàn, chê bai giới luật, hủy báng người xuất gia, bác không có nhân quả, cho rằng chết rồi mất hẳn không có đầu thai, âm thầm làm việc tham dục, khiến cho người thọ dục cũng chấp không có nhân quả tội phước v.v…Đến khi lúc ma nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục vô gián.
10/ Tham cầu sống lâu.
Người tu thiền định, móng tâm tham cầu sống lâu. Lúc bấy giờ Thiên ma hiểu biết, xuất hồn nhập cho người, mà người tự không biết, nói mình đặng đạo vô thượng Niết bàn, miệng thường nói kinh pháp và đi qua lại các thế giới được tự tại không ngăn ngại; mặc dù đường xa muôn dặm, nhưng đi trong nháy mắt rồi trở về đến chỗ, lại lấy những vật ở phương xa kia đem về làm tin. Hoặc ở trong một căn nhà nhỏ, nó bảo người đi thiệt mau, từ vách bên này qua vách bên kia, đi mấy năm cũng không đến; hoặc thường nói : “Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên tự nhiên có, chẳng nhơ tu hành mà được”; hoặc ngồi nói lầm thầm một mình như người cuồng, khiến cho người đời tin tưởng là Phật thiệt. Các ông biết trước thì khỏi bị luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
TÓM LẠI
A Nan ! Mười món ma tưởng ấm này, ở trong đời mạt pháp, sẽ giả làm người xuất gia tu hành trong đạo của ta, hoặc nhập cho người, hoặc tự hiện hình, đều xưng rằng : “Đã chứng quả Phật”. Chúng khen ngợi việc dâm dục, phá giới luật của Phật. Ma thầy, ma trò cùng nhau truyền dạy làm hại cho người đến nhiều đời lắm, khiến người chơn tu mất chánh kiến, bị đọa làm bà con quyến thuộc của ma.
Các ông ngày nay đã được độ ra khỏi sanh tử luân hồi, vậy các ông phải khởi lòng đại từ bi, không nên nhập diệt sớm, phải nguyện ở lại đời mạt pháp để cứu độ những người chơn chánh tu hành đời sau, khỏi bị ma nhiễu hại.
Các ông tuân theo lời ta dạy đây, mới gọi là đền đáp ơn Phật. Các ông cố gắng bảo hộ người tu hành, nên đem lời nói của ta đây truyền dạy cho chúng sinh đời sau, khiến cho họ hiểu rõ các việc ma, để khỏi bị Thiên ma nhiễu hại và mau được thành đạo vô thượng.
MƯỜI MÓN MA VỀ HÀNH ẤM
1/ Chấp không nguyên nhân sanh.
A Nan, người tu thiền định khi tưởng ấm hết rồi, thì tâm được minh chánh, không còn khởi các vọng tưởng tham muốn như trên, nên các Thiên ma không gặp dịp thuận tiện để nhiễu hại nữa. Lúc bấy giờ hành giả tự nghiên cứu nguồn gốc của muôn loài, rồi sanh ra hai lối chấp :
a/ Vì chỉ thấy biết được chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại, ngoài tám vạn kiếp thì mù mịt không thấy biết, nên sanh ra chấp : “chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại tự nhiên có, không có nguyên nhân sanh”.
b/ Hành giả nghiên cứu chỉ thấy người sanh ra người, chim sanh ra chim, quạ từ hồi nào đến giờ vẫn đen, không phải do nhuộm mà đen, cò từ hồi nào đến giờ vẫn trắng, không phải do rửa mới trắng v.v…từ tám vạn kiếp đến nay đã vậy, thì từ đây về sau cũng thế. Hành giả tự nghĩ : “ta từ hồi nào đến giờ không thành Bồ đề, thì về sau đâu lại có thành Phật”; rồi khởi ra tà chấp : “Các vật tượng ngày nay đều không có nguyên nhân”. Bởi họ mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến, sanh ra hai lối chấp trên, nên đều đọa về ngoại đạo.
2/ Bốn món chấp thường.
A Nan, người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, tâm được minh chánh, nên ngoại ma không còn thuận tiện để nhiễu hại được. Khi đó hành giả tham cứu cùng tột cội gốc của muôn loài, khởi ra bốn món chấp thường :
a/ Chấp hai vạn kiếp thường. – Vì hành giả nghiên cứu cùng tột cả tâm và cảnh đều vô nhơn, vì sức tu chỉ biết được chúng sanh sanh diệt xoay vần từ hai vạn kiếp trở lại không mất, nên chấp cho là thường.
b/ Chấp bốn vạn kiếp thường. – Hành giả tham cứu cùng tột tánh của tứ đại thường còn, do sức tu tập chỉ biết được chúng sanh từ bốn vạn kiếp trở lại, tuy có sanh diệt, mà bản thể nó vẫn thường còn không mất nên chấp là thường.
c/ Chấp tám vạn kiếp là thường. – Hành giả tham cứu cùng tận tám thức, thấy nó thường hằng. Vì thấy từ tám vạn kiếp trở lại chúng sanh xoay vần không mất nên chấp là thường.
d/ Chấp cái không sanh diệt là thường. – Người tu thiền định khi các tưởng ấm sanh diệt đã hết, nhơn đó khởi tâm chấp cái không sanh diệt là thường.
A Nan, người tu thiền định, do mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra bốn món chấp thường trên, nên đều đọa về ngoại đạo.
3/ Chấp một phần thường, một phần vô thường.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, nghiên cứu cùng tột cội gốc của sanh loại, rồi khởi ra bốn lối chấp điên đảo :
a/ Chấp tâm là thường, chúng sanh vô thường. – Hành giả khi khi quán tâm mình yên lặng khắp cả mười phương, các chúng sanh từ trong tâm mình tự sanh và tự chết, rồi chấp tâm ta là thường, chúng sanh vô thường.
b/ Chấp thế giới, những chỗ bị hoại là vô thường những chỗ không hoại là thường. – Người tu thiền định quán sát cả mười phương thế giới, chỗ kiếp hoại (như từ tam thiền trở xuống bị tam tai làm hoại) thì chấp là vô thường; những chỗ không hoại thì chấp là thường (từ tứ thiền trở lên, tam tai không làm hoại được, chấp cho là cứu cánh Niết bàn).
c/ Chấp cái tâm là thường, còn sanh tử vô thường. – Người tu thiền định, quán sát tâm mình không biến đổi, nó nhỏ nhiệm tinh vi như hạt bụi và lưu chuyển cả mười phương, lại khiến cho thân này sanh và diệt mà nó không biến đổi; nên chấp cho : “Tâm là thường; tất cả các vật đều từ tâm sanh ra, có sanh tử nên vô thường”.
d/ Chấp hành ấm thường; sắc, thọ, tưởng, là vô thường. – Người tu thiền định, khi thấy sắc, thọ, tưởng, trước đã diệt, nên chấp là vô thường, thấy hành ấm lưu chuyển thường còn nên chấp là thường.
Bốn lối chấp trên, đều sai lầm cả, do mê muội tánh Bồ đề, mất chánh kiến, nên đọa về ngoại đạo.
4/ Chấp có bốn món biên giới.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, thấy được cùng tột cội gốc của sanh loại, lúc bấy giờ khởi ra bốn lối chấp có biên giới :
a/ Chấp ba đời. – Người tu thiền định, lúc bấy giờ chấp tâm niệm hiện tại tương tục (hành ấm) là vô biên, còn quá khứ và vị lai là hữu biên.
b/ Chấp chúng sanh. – Người tu thiền định vì chỉ thấy được chúng sanh trong tám vạn kiếp, nên chấp là hữu biên; còn trước tám vạn kiếp thì tịch mịch không thấy và cũng không nghe, nên chấp là vô biên.
c/ Chấp tâm tánh. – Người tu thiền định khi thấy tâm mình biến khắp và biến ra tất cả người, nên khởi lên chấp tâm ta vô biên; còn tất cả người đều ở trong tâm ta, là hữu biên.
d/ Chấp sanh diệt. – Người tu thiền định, khi cùng tột hành ấm, thấy được tâm mình, họ sanh tâm chấp tất cả chúng sanh và thế giới đều có phân nửa diệt; sanh là hữu biên, diệt là vô biên.
Các lối tà chấp trên, đều do trong khi tu thiền mất chánh kiến, mê mờ Bồ đề, nên đều đọa về ngoại đạo cả.
5/ Bốn món luận nghị rối loạn không có nhứt định.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, liền khởi ra bốn lối chấp điên đảo không nhất định.
a/ Chấp bốn món “cũng”. – Người tu thiền định, khi quan sát nguồn gốc biến hóa của muôn vật, thấy có chỗ thì biến đổi, có chỗ lại thường còn; có cái sanh, có cái diệt, có pháp tăng, có vật giảm, có cái có, có cái không. Bởi thế, khi có ai đến hỏi đạo thì họ đáp rằng : “Cũng biến, cũng hằng, cũng sanh, cũng diệt, cũng tăng, cũng giảm, cũng có, cũng không”. Lúc nào họ cũng nói rối loạn như vậy, làm cho người không hiểu chi cả.
b/ Chấp chỉ có cái “không”. – Người tu thiền định, vì quán cả tâm và pháp đều không; rồi cứ chấp ở nơi cái “không”. Có ai đến hỏi đạo thì họ chỉ đáp một chữ “không”; ngoài cái “không” ra thì không còn nói chi nữa cả.
c/ Chấp chỉ có cái “có”. – Người tu thiền định, do quán sát tâm mình biến khắp tất cả, chỗ nào cũng có, rồi cứ chấp ở cái “có”. Có ai đến hỏi đạo, họ chỉ nói một chữ “có”; ngoài cái “có” ra thì không còn nói gì nữa cả.
d/ Chấp “cũng có” và “cũng không”. – Người tu thiền định vì thấy ở nơi cảnh đã lăng xăng, còn tâm thì rối loạn, nên có người đến hỏi đạo, họ lại đáp rằng : cái “cũng có” cũng tức là cái “cũng không”; trong cái “cũng không” cũng tức là cái “cũng có”. Lúc nào họ cũng rối loạn như vậy, không ai gạn cùng được.
Người tu thiền định vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra các lối chấp như vậy, nên đều đọa về ngoại đạo.
6/ Chấp mười sáu tướng có.
Người tu thiền định khi tưởng ấm hết, chỉ còn hành ấm diêu động, thấy một nguồn sống vô tận, nên sanh tâm chấp “chết rồi còn có tướng”.
Chấp về sắc uẩn có bốn :
a/ Chấp sắc uẩn là “ta”.
b/ Chấp “ta” có sắc uẩn.
c/ Chấp sắc uẩn thuộc nơi “ta”.
d/ Chấp “ta” ở nơi sắc uẩn.
Còn thọ, tưởng, hành mỗi uẩn cũng đều có bốn lối chấp như vậy, cộng thành mười sáu tướng. Hoặc chấp phiền não và Bồ đề hai tánh thật có; hết phiền não mới được Bồ đề, hai tánh không chung gặp nhau.
Vì hành giả trong lúc tu thiền, mất chánh tri kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra các lối chấp trên, nên đều đọa về ngoại đạo.
7/ Chấp tám món vô tướng.
Người tu thiền định khi sắc, thọ, tưởng đã diệt rồi, lúc bấy giờ thấy thân hình hiện tiền đây còn không thật có, thì khi chết rồi làm gì lại có các hình tướng. Vì so sánh như vậy, nên họ chấp chết rồi không có hình tướng.
Đã chấp sắc ấm như trên thì đối với thọ, tưởng, hành họ cũng quan niệm không thật có (chấp hiện tại và vị lai đều không tướng), thành ra tám món đều vô tướng. Hoặc họ chấp Niết bàn chỉ có cái tên suông, không có nhơn quả, rốt ráo đoạn diệt.
Vì hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến, khởi ra các lối tà chấp như vậy, nên đều đọa về ngoại đạo.
8/ Chấp tám món cu phi.
Người tu thiền định, đối với ba ấm : sắc, thọ và tưởng, trước kia thấy có mà nay lại không; còn đối với hành ấm thiên lưu hiện nay thì có mà về sau lại không. Vì chấp mỗi ấm đều có hai tướng : chết rồi phi hữu và phi vô, nên hợp cả bốn ấm thành ra tám tướng. Bởi hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến nên đều đọa về ngoại đạo.
9/ Chấp năm món đoạn diệt.
Người tu thiền định, khởi ra các chấp : Cõi Dục thì “sắc thân” diệt hết, cõi Sơ thiền các “dục” diệt hết, cõi Nhị thiền các “khổ” diệt hết, cõi Tam thiền các “vui” diệt hết, cõi Tứ thiền các “xả” diệt hết.
Như vậy xoay vần cùng tột cả năm nơi đều chấp hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không sanh trở lại. Vì hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến, sanh các lối tà chấp như vậy, nên đọa về ngoại đạo.
10/ Chấp năm món Niết bàn hiện tại.
Người tu thiền định, khi thọ ấm hết, xét cùng cội gốc của sanh loại, khởi ra chấp năm chỗ Niết bàn :
a/ Chấp Dục giới là cảnh Niết bàn.
b/ Chấp cõi Sơ thiền là Niết bàn.
c/ Chấp cõi Nhị thiền là Niết bàn.
d/ Chấp cõi Tam thiền là Niết bàn.
đ/ Chấp cõi Tứ thiền là Niết bàn.
Vì hành giả mê muội tánh Bồ đề, chấp năm cảnh vui cõi trời hữu lậu mà cho là vô vi Niết bàn, nên đọa về ngoại đạo.
TÓM LẠI
A Nan, mười cảnh ma về hành ấm này, là do hành giả dụng tâm sai lầm nên mới sanh ra như vậy. Vì hành giả mê mờ không biết, tự cho là chứng Thánh, sanh đại vọng ngữ, nên đọa vào ngục vô gián. Vậy ông nên đem những việc ma này, truyền dạy cho chúng sanh đời sau, chớ để cho người tu thiền bị tâm ma khởi lên làm hại đến họ. Các ông phải bảo hộ người tu hành đi thẳng đến đạo Bồ đề, chớ để cho họ gặp con đường chia tẻ.
MƯỜI MÓN MA VỀ THỨC ẤM
1/ Chấp minh đế.
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chỉ còn thức ấm, các tướng sanh diệt đã hết, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện bày. Lúc bấy giờ nếu hành giả móng tâm chấp là chơn thường, thì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, thành bè bạn với phái ngoại đạo Ta tỳ ca la, chấp minh đế (sơ tưởng A lại da) là cái chỗ trở về của vạn vật, trái với thành Niết bàn, đọa vào ngoại đạo.
2/ Chấp năng sanh.
Người tu thiền định khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện, khi đó thấy thức tâm mình châu biến, rồi khởi ra cái chấp : “Tất cả chúng sanh đều do ta sanh ra”. Vì sanh tâm như thế, nên hành giả mất chánh kiến, mê lầm tánh Bồ đề, thành bà con của trời Đại ngã mạn (Mê hê thủ la thiên).
3/ Chấp chơn thường.
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thức ấm hiện ra, rồi sanh tâm nghi : Thân mình và mười phương hư không đều từ thức kia hiện ra, nên sanh tâm chấp cho “thức là chơn thường”, mất chánh kiến, mê tánh Bồ đề thành bè bạn của trời Tự tại.
4/ Chấp cỏ cây cũng đều biết.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết tướng sanh diệt đã diệt, chơn tâm tịnh diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thấy thức ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp : “Mười phương cỏ cây cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây”. Vì mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, nên hành giả sẽ làm bè bạn với hai chúng ngoại đạo Bà tra và Tán ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác (biết).
5/ Chấp tứ đại hóa sanh.
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chơn tâm chưa hiện, lúc bấy giờ thấy lửa sáng, nước trong, gió động, đất cứng, do bốn món này sanh ra các vật, rồi chấp cho là thường còn, hết lòng cung kính phụng thờ. Như ông Ca Diếp Ba và phái Bà la môn thờ lửa, thờ nước v.v… để cầu ra khỏi sanh tử, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, đọa làm ngoại đạo.
6/ Chấp hư vô.
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thấy thức ấm viên minh, rồi sanh ra chấp cái thức ấm hư vô, là chỗ nương của muôn vật, tất cả các vật đều về chỗ hư. Vì vậy mà mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề nên người tu thiền thành bè bạn với trời Vô tưởng, Tứ không và thần Hư không.
7/ Tham cầu sống lâu.
Người tu thiền định khởi tâm tham cầu thân thường còn, cố làm cho thân này được sống hoài không chết, nên thành bè bạn của tiên A Tư Đà, cầu mạng sống lâu, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, đọa về ngoại đạo.
8/ Tham luyến cảnh dục.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, lúc bấy giờ thấy thân thể và thức tâm tiêu diệt, cho nên sanh tâm lưu luyến cảnh trần, tự biến hóa ra nhiều cảnh báu đẹp và nhiều mỹ nữ, rồi mặc tình vui thú. Vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, nên thành bè bạn của Thiên ma ở cõi trời Tự tại (trên đảnh cõi Dục).
9/ Định tánh Thinh văn.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà chơn tâm tịch diệt chưa viên, lúc bấy giờ khởi tâm tham luyến, ở chỗ không tịch, chẳng muốn tăng tiến, vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, đọa về hàng Định tánh Thinh văn, như ông Vô văn Tỳ kheo, sanh tâm tăng thượng mạn.
10/ Định tánh Duyên giác.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, chỉ thấy một màu thanh tịnh sáng suốt, lúc bấy giờ sanh tâm chấp cho đó là Niết bàn; rồi họ tham trước ở cảnh này, không cầu tăng tiến, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến nên đọa về hàng Định tánh Duyên giác.
TÓM LẠI
A Nan, mười món ma này, do người tu thiền, khi dụng tâm phá trừ thức ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Vì mất chánh tri kiến, mê lầm tánh Bồ đề, khởi tâm chấp trước, cho mình đặng thiền, đặng đạo, thành Phật, thành Thánh v.v…có người sanh ra điên cuồng, nên đều đọa về ngoại đạo cả.
Vậy các ông phải gìn giữ nơi lòng, vâng lời ta dạy. Sau khi ta diệt độ rồi, các ông phải đem lời ta dạy đây mà truyền lại cho chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành chớ để cho chúng ma làm hại. Trên đường tu hành họ được thẳng vào chỗ tri kiến của Phật, chẳng gặp các đường tẽ.
Này A Nan, người trong khi tu thiền, gặp ma biến hiện ra nhiều cảnh rất là vi tế. Nếu các ông hiểu biết, rửa sạch tâm cấu nhiễm, các ông sẽ thẳng đến đạo Bồ đề.
Còn như đời sau, có chúng sanh nào chẳng dám tu thiền, sợ bị các ma nhiễu hại, thì ông nên khuyên họ nhứt tâm trì chú Lăng Nghiêm này, để các ma chướng kia không thể hại được, rồi thế nào họ cũng thẳng đến được đạo Bồ đề.
Khi Phật nói kinh này rồi, toàn cả hội chúng, nào : Tăng, Ni, thiện nam, tín nữ, Trời, Người, thần A tu la, Thánh, Tiên, Quỷ thần, Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát, tất cả đều hoan hỷ lễ Phật rồi trở lui.
IV. CÁC KINH SÁCH NÓI VỀ THIỀN
Kinh sách nói về thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu để học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số kinh sách thiết yếu sau đây :
1. Kinh Lăng Già
2. Kinh Lăng Nghiêm
3. Kinh Viên Giác
4. Kinh Pháp Bảo Đàn
5. Đại Thừa Chỉ Quán
6. Tiểu Chỉ Quán
7. Đồng Môn Chỉ Quán
8. Lục Diệu Pháp Môn
9. Kinh Kim Cang
10. Truyền đăng lục
11. Thiền gia ngữ lục
12. Tọa thiền chỉ nam
13. Tông cảnh lục (của ngài Tống Diên Thọ thiền sư)
14. Luận Đại thừa khởi tín (của Bồ tát Mã Minh)
15. Vô môn quán (của Tống Tôn Thiện thiền sư)
16. Bích Nham Lục (của Phật quả Viên ngộ)
17. Thung dung lục (của Vạn tùng Lão nhơn)
18. Thiên Lâm Vĩnh gia tập (của Huyền Giác)
19. Thiền tôn chỉ nam (của vua Trần Thái Tôn) v.v…
PHẦN TỔNG KẾT
Thiền định có nhiều loại, nhưng tóm lại, có thể chia làm hai loại lớn : Chánh định và tà định, hay phàm phu thiền và thánh nhơn thiền, hoặc ngoại đạo thiền và Phật giáo thiền.
Thiền định của ngoại đạo :
Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chơn chánh (phiền não, tham, sân, si, v.v…) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến tánh, hay giác ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để hưởng lạc thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu được phép lạ trị bệnh, để thiên hạ sùng bái kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v…
Hãy nghe tổ Tôn Mật dạy : “Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán đời dưới mà tu thiền đó là ngoại đạo thiền”.
Thiền định của phàm phu :
Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục là ô trược mà cầu sinh về cõi Sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát.
Hãy nghe tổ Tôn Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này : “Người chánh tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền”.
Thiền định của Phật giáo :
Thiền định của Phật giáo có hai loại : Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền.
– Tiểu thừa thiền là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu thừa người tu phép thiền định này chỉ có công dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn ngộ ngay được.
Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng : Những phương pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có thật tu, thật chứng.
Ngài Tôn Mật định nghĩa về Tiểu thừa thiền như sau : “Người biết rõ lý ngã không (nhưng còn chấp pháp) mà tu thiền là Tiểu thừa thiền”.
– Đại thừa thiền : Đây là phương pháp tu thiền của những Bồ tát, căn tánh mau lẹ vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như ngài Huệ Năng, chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, hay ngài Ca Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen lên mà liền tỏ ngộ.
Sở dĩ các vị này được mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trãi qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.
Hãy nghe tổ Tôn Mật nói về các vị này :
“Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn như tam muội”.
Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Đại thừa thiền có ba cách :
– Cách thứ nhất : Đây là các loại tam muội, mà hành giả căn cứ theo các kinh sách Đại thừa tu luyện, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, v.v…
– Cách thứ hai : Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi, để chỉ giáo. Trong Phật giáo gọi lối thiền này là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham cứu này Thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.
– Cách thứ ba : Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách các tổ sư, khi có người đến cầu pháp, không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.
Như dòng Lâm tế, khi có người đến cầu đạo, Thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét.
Như dòng Quy ngưỡng, các vị tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử.
Như dòng Vân môn, có vị tổ chỉ nói một chữ mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ.
Như có ngài chỉ đãi nước trà (ngài Triệu Châu) hay mời ăn cơm mà người đến cầu đạo được giác ngộ.
– Có người lại ngắm bóng mình dưới nước, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo và cười (hổ khê tam tiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liểu, hay lấy gậy đập cục đất cho bể tan mà liền ngộ đạo.
Thật là thiền cơ mầu nhiệm, người ngoài không thể suy nghĩ, luận bàn được.
Muốn cho người cầu đạo được kết quả các vị truyền pháp phải hội đủ ba điều kiện sau đây :
– Biết căn cơ người cầu đạo.
– Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo.
– Biết phương pháp nào thích hợp.
Trong ba phương pháp nói trên. Nếu truyền pháp không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả.
Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chắc quý đọc giả cũng đồng ý là : nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền tôn, và Thiền tôn là môn phái rất thịnh hành nhất trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung mậu như xưa nữa.
Vậy chúng tôi hy vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ sự gia tâm tu học của các Phật tử Việt Nam, Thiền tôn sẽ thấy lại sắc thái sung mậu ở Việt Nam như các thời Lý, Trần. %
Thảo luận về post