Phụ trích vài bài thơ của Điều Ngự Giác Hoàng:
1. ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN
Địa tịch đài du cổ
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm,
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dịch: LÊN NÚI BẢO ĐÀI
Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng ống sáo
Đầy ngực ánh trăng lồng.
(Ngô Tất Tố)
2. XUÂN VÃN
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch: CUỐI XUÂN
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.
3. SƠN PHÒNG MẠN HỨNG
I
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
II
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch: PHÒNG NÚI KHỞI HỨNG
I
Ai trói lại mong cầu giải thoát
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão
Như cũ vân trang một chõng thiền.
II
Phải quấy niệm rơi hoa buổi sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.
4. ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ
Huân tận thiên đầu mãn tọa hương
Thủy lưu sơ khởi bất đa lương
Lão dung ảnh lý tăng quan bế
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.
Dịch: ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH
Nghìn hương thắp hết ngát đầy tòa
Làn nước nhẹ nhàng gió lạnh qua
Dưới bóng đa già chùa cửa đóng
Ve ngâm dấy khởi tứ thu xa.
*
* *
Chẳng những Trúc Lâm Đầu-đà làm thơ chữ Hán mà còn làm phú, ca chữ nôm nữa. Như Cư Trần Lạc Đạo Phú và Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca… Ở đây chúng ta trích vài hội trong bài Cư Trần Lạc Đạo để thấy rõ tinh thần của Ngài.
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ
– Hội thứ nhất-
Mình ngồi thành thị.
Nết dùng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh,
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí,
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý,
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm.
Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng,
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục,
Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đâm.
Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu,
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nửa hoàng kim.
– Hội thứ hai –
Biết vậy !
Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương,
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương,
Di-đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe,
Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay.
Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nữa thiên cung,
Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác…
Đến sau hội thứ mười, kết thúc bằng bài kệ chữ Hán. Kệ rằng:
Ở trần vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.)
Thảo luận về post