TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – tập 1
LÊ MẠNH THÁT
NXB TP. HCM
LỜI ĐẦU SÁCH
Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăng trầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
Hiện nay chúng ta chỉ mới phát hiện một phần rất nhỏ số lượng tư liệu vừa mới bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm hiện đã biết tên, nhưng chưa được thực hiện một cách có hệ thống và nghiêm túc. Mà đối với kho tàng tri thức quý báu đó, chúng ta có trách nhiệm phải bảo tồn, khai thác và tận dụng một cách triệt để nhằm hổ trợ cho các thế hệ hiện tại và tương lai hiểu rõ thêm về nguốn gốc và truyền thống của văn hóa dân tộc, nhằm đóng góp và xây dựng cho xã hội hiện đại cho chúng ta ngày càng phát triển và văn minh hơn.
Vì vậy, để thể hiện nỗ lực và bảo tốn khai thác vừa nói, chúng tôi mạnh dạn cho công bố bộ Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam này. Trước đây, cũng từng có một số công trình tập hợp các tư liệu Phật giáo. Chẳng hạn giữa thế kỷ thứ XIX, cụ thể là năm 1856, Thiền sư An Thiền đã cho ra đời bộ Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục ( 5 quyển ) bao gồm Thiền uyển tập anh làm quyển thượng,Kế đăng lục của Như Sơn làm quyển nhất, quyển tà và quyển hữu, còn quyển hạ do chính An Thiền viết. Đến gần giữa thế kỷ XX, thì Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ do các hòa thượng Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài, Thanh Tích, cùng hợp tác với trường Viễn Đông Bát Cổ để cho ra đời bộ Việt Nam Phật Điển tùng san gồm cả thảy 8 quyển, in dập theo các bản in cũ của các tác phẩm Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên bộ Phật điển tùng san này mắc hai khuyết điểm lớn. Thứ nhất, về những văn bản in dập lại, người đứng in đã không tiến hành những nghiên cứu văn bản học đối với tác phẩm đã in, làm hạn chế độ tin cậy của văn bản được công bố. Khuyết điểm thứ hai là chỉ in dập lại các văn bản cũ bằng chữ Hán hoặc chữ quốc âm, mà vào thời điểm ra đời của bộ Phật điển tùng san, hai loại chữ này đã không còn phổ biến rộng rãi nữa. Cho nên, nó đã không còn gây được tác động lớn trong giới học thuật. Thêm vào đó, vì những biến động vào năm 1945, bộ Việt Nam Phật Điển tùng san chỉ in tới quyển thứ 8 thì chấm dứt và sau đó không thấy xuất hiện thêm quyển nào nữa. Ngoài ra do thuộc loại in dập, sự sắp đặt các tác phẩm in trong bộ này không dựa trên tiêu chuẩn học thuật và thứ tự tổ chức nào cả. Những điểm này càng làm hạn chế ảnh hưởng học thuật của bộ sách này .
Bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của chúng tôi ra đời, do thế, sẽ được thực hiện theo một số phương châm sau. Thứ nhất, về mặt tổ chức, chúng tôi sắp xếp các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX….
Thứ hai,về mặt học thuật, bộ Tổng tập này chỉ bao gồm các tác phẩm viết bằng văn tự khối vuông, tức bao gồm các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ quốc âm.Đối với những tác gia sống trong buổi giao thời của việc chuyển từ văn tự khối vuông qua mẫu tự Latin, nếu tác phẩm chính của họ viết chủ yếu bằng văn tự khối vuông thì cũng sẽ được đưa vào trong bộ Tổng tập này.
Thứ ba,những tác phẩm in trong Tổng tập đều do các tác gia Việt Nam thực hiện, trừ ba dịch tác gia là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Viên Văn Chuyết Chuyết và Đại SánThạch Liêm. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn Độ, còn hai vị kia là người Trung Quốc. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã cùng với người học trò mình là Pháp Hiền thành lập nên dòng thiền Pháp Vân. Cho nên, vị thiền sư này qua những dịch phẩm của mình như Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh và Đại thừa phương quảng tổng trì kinh chắc chắn là có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ tư tưởng thiền Pháp Vân. Vì vậy, cả hai dịch phẩm này sẽ được chúng tôi đưa vào phần phụ lục của Tổng tập. Viên Văn Chuyết Chuyết đã sống một thời gian dài và mất tại nước ta, có viết một tác phẩm ngắn là Bồ đề yếu nghĩa,chúng tôi cũng cho in vào đây để tiện việc nghiên cứu tác động tư tưởng của Viên Văn đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Còn Đại Sán Thạch Liêm có nhiều tác phẩm hơn và được lưu hành rộng rãi trong giới học thuật Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là bộ Hải ngoại kỷ sự. Cho nên, để cung cấp tư liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng cho công bố các tác phẩm của Đại Sán trong bộ Tổng tập này.
Thứ tư,về tác gia Đại Thừa Đăng, nếu giả thiết của chúng tôi về Đại Thừa Đăng là Đại Thừa Quang được chấp nhận, thì ta sẽ có một loạt các tác phẩm của thế kỷ thứ VII hiện biết dưới tên Đại Thừa Quang. Đó là Câu xá luận ký, Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký và Duy thức chỉ nguyên. Các tác phẩm này có thể là do Đại Thừa Đăng viết, nhưng đã lưu hành dưới tên Đại Thừa Quang. Các tác phẩm này chúng tôi cũng sẽ đưa vào phần phụ lục của Tổng tập để làm tư liệu nghiên cứu, trong khi chờ đợi sự thẩm định của giới họcgiả trong và ngoài nước.
Thứ năm,đối với từng tác giả, chúng tôi cho nghiên cứu niên đại, cuộc đời và sự nghiệp của họ; còn đối với các tác phẩm, chúng tôi cho nghiên cứu tình trạng văn bản, nội dung và niên đại ra đời của chúng. Đồng thời cho phiên âm nếu viết bằng chữ quốc âm, dịch nghĩa nếu viết bằng chữ Hán, ra tiếng Việt quốc ngữ.
Thứ sáu,về mặt in ấn, ngoài việc cho in bản nghiên cứu, phiên âm hoặc dịch nghĩa từng tác phẩm như vừa nói, chúng tôi đồng thời cho in lại nguyên bản quố câm hoặc chữ Hán của chúng, nhằm bảo tồn các bản in quý, và để làm tư liệu kiểm soát cho những ai muốn tìm hiểu xa hơn. Những nguyên bản Hán và quốcâm bị thất lạc vào năm 1984, mà chúng tôi đã làm nghiên cứu và phiên âm hay dịch nghĩa, chúng tôi cũng mạnh dạn cho công bố trong bộ Tổng tập,trong khi chờ đợi tìm lại chúng và sẽ bổ sung trong tương lai, khi có dịp tái bản.
Dự kiến bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu trên dưới 40 tác gia của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu với Mâu Tử (160-220?) cho đến tác gia cuối cùng có tác phẩm viết bằng chữ Hán là thiền sư Chân Đạo Chính Thống (1900-1968). Trong số những tác gia này, họ chủ yếu là các thiền sư. Chỉ trừ ba tác gia đời Trần là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Trần Quốc Tung và Trần Nhân Tông, một tác gia đời Lê là Lê Thánh Tông, một tác gia đời Tây Sơn là Ngô Thời Nhiệm và một tác gia thời Nguyễn là Nguyễn Du. Các tác gia này ngoài Phật giáo ra còn viết về nhiều đề tài khác nhau, song tự bản thân họ đã xác nhận mình là thiền sư như Trần Nhân Tông hay Ngô Thời Nhiệm, hoặc tự nhận mình có gắn bó chặt chẽ với Phật giáo qua thơ văn như Lê Thánh Tông và Nguyễn Du. Chúng tôi do thế đã đưa các tác gia này vào trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, một số tác gia khác có viết về đề tài liên quan đến Phật giáo Việt nam, và họ có thể là những Phật tử. Nhưng chúng tôi cũng chưa đưa vào trong bộ Tổng tập này, vì những tác phẩm ấy chưa chiếm ưu thế trong số lượng tác phẩm của họ. Chẳng hạn, Đặng Xuân Bản có viết Không Lộ đại thánh sự tích, song vẫn chưa đượcđưa vào trong Tổng tập này do việc nó không chiếm ưu thế trong toàn bộ tác phẩm của ông.
Dưới đây là bản dự kiến danh sách các tác gia và tác phẩm sẽ công bố trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Đây mới chỉ là một số tác gia và tác phẩm tiêu biểu mà chúng tôi đã sưu tầm được trong những năm qua. Với Tổng tập này, chúng tôi cũng chưa đưa vào các bài văn bia và minh trên đá và chuông đồng, trừ những bài của các tác giả có tác phẩm được in. Những văn bia chưa được in trong bộ Tổng tập này sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng. Những tác giả có viết các bài tựa và bạt khi in lại các kinh sách Phật giáo, nhưng không có những tác phẩm khác, thì cũng sẽ được tập hợp và in thành một tập riêng trong tương lai, trừ những bài tựa và bạt của các tác giả có tác phẩm in trong Tổng tập này. Số tựa bạt này tuy chưa phát hiện hết, vẫn được công bố. Nếu trong tương lai có tìm thêm được những tác gia và tác phẩm mới, chúng tôi sẽ công bố trong phần Bổ di của bộ Tổng tập.
1- Mâu Tử (160-220)
– Lý hoặc luận
2-Khương Tăng Hội (370-450?)
– Lục độ tập kinh
– Cựu tạp thí dụ kinh
– An ban thủ ý kinh chú giải
– Pháp kính kinh tự
3- Lý Miểu, Đạo Cao và Pháp Minh
– Sáu lá thư
4- Kim Sơn (1300?-1370)
– Thiền uyển tập anh
– Thánh đăng ngữ lục
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
5- TrầnThái Tông (1208-1277)
– Khóa hư lục
– Một số thơ văn khác
6- Tuệ Trung Trần Quốc Tung (1230-1291)
– Thượng sĩ ngữ lục
7- Trần Nhân Tông (1258-1308)
– Cư trần lạc đạo phú
– Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
– Một số thơ văn khác
8- Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334)
– Thiền đạo hiếu học
9- ViênThái (1400-1460)
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
– Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh
– Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh
10- LêThánh Tông (1442-1497)
– Thập giới cô hồn văn
– 29 lá sớ và các thơ văn khác
11- Lê Ích Mộc (1460-?)
– Bài thi trạng nguyên năm 1502
12- PhápTính (1470-1550)
– Ngọc âm chỉ nam giải nghĩa
– Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh
13- ThọTiên Diễn Khánh (1550-1610)
– NamHải Quan Âm Phật sự tích ca
14- ChânAn Tuệ Tĩnh (?-1711)
– Nam dược thần hiệu
– Hồng nghĩa giác tý y thư
– Khóa hư lục giải nghĩa
15- Minh Châu Hương Hải (1628-1715)
– Giải Kim cang kinh
– Giải Di Đà kinh
– Giải tâm kinh ngũ chỉ
– Sự lý dung thông
– Hương Hải thiền sư ngữ lục
16- Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726)
– Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới
– Nghênh sư duyệt định khoa
– Long thư tịnh độ văn tự
– Long thư tịnh độ luận bạt hậu tự
– Thánh đăng ngữ lục hậu bạt
– Kiến tính thành Phật lục
– Tịnh độ yếu nghĩa
– Ngộ đạo nhân duyên
– Thiền tịch phú
– Thiền tông bản hạnh
– Nam Hải Quan Âm bản hạnh
– Thiên Nam ngữ lục
– Đạt Na thái tử hạnh
– Hồng mông hạnh
17- NhưTrừng Lân Giác (1690-1728)
– Sa di thập giới quốc âm
– Ngũ giới quốc âm
– Phật tâm luận
– Kiến đàn giải uế nghi
– Mãn tán tạ quá nghi
18- NhưThị (1680-1740)
– Oai nghi quốc ngữ
19- NhưSơn (1670-1730?)
– Ngự chế thiền uyển kế đăng lục
20- MinhGiác Kỳ Phương (1682-1744)
– Quy ước thiền đường
– Đạo Nguyên thiền sư bi minh
– Kiết hạ an cư thị chúng
21-Quảng Trí (1700-1760?)
– Mục ngưu đồ giải nghĩa
22- Tính Quảng Điều Điều (1720-1780)
– Tam tổ thực lục
– Phật quốc ký
– Sa dini học pháp oai nghi quốc âm
– Hiến cổ châu Phật tổ nghi
– Văn bia và một số các bài tựa
23- PhápChuyên (1726-1798)
– Diệu Nghiêm lão tổ thi tập
– Tam bảo biện hoặc luận
– Chiết nghi luận tái trị
– Thiện ác quy cảnh lục
– Tam bảo cố sự
– Báo ânkinh chú giải
– ĐịaTạng kinh yếu giải
– Quy nguyên trực chỉ âm nghĩa
– Tỳ ni Sa di Oai nghi Cảnh sách âm chú yếu lược.
– Tỳ ni nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú
– Sadi luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ẩn
– Quy Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên
– Nhãn sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên
– A Di Đà sớ sao sự nghĩa
– Tam giáo pháp số
– Tam giáo danh nghĩa
– Chư kinh sám nghi
– Hoằng giới đại học chi thư
– Chính truyền nhất chi
24- Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746-1803)
– Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh
– Hàn các anh hoa
– Kim mã hành dư . . .
25- Toàn Nhật (1757-1834)
– Hứa Sử truyện vãn
– Tam giáo nguyên lưu ký (Thích Ca Phật vãn)
– Tống vương truyện
– Lục tổ truyện diễn ca
– Bát nhã đạo quốc âm văn
– Xuất gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn
– Tham thiền vãn
– Hoán tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn
– Thiền cơ yếu ngữ vãn
– Giới hành đồng từ
– Trùng khuyến thân chử Hán
26-Nguyễn Du (1766-1820)
– Truyện Kiều
– Văn tế thập loại chúng sinh
– Thơ chữ Hán
27- AnThiền Phúc Điền (1790-1860?)
– Thiền đường quy ước
– Đạo giáo nguyên lưu
– Tạigia tu trì cách thức
– Giới sát văn
– Phóng sanh văn
– Hóa hư lục giải nghĩa
– Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục
– Kim cang giải nghĩa
– Di Đà kinh giải nghĩa
28-Thanh Đàm (1780-1840)
– Pháp hoa giải nghĩa
– Bát nhã giải
29- Đạo Minh Phổ Tịnh (?1750-1816)
– Phú pháp kệ
30- Bạch Liên (1770-1820?)
– Du YênTử sơn nhật trình
– Thiếu thất phú
– Một số tựa bạt
31- Tánh Thiên Nhất Định (1784-1847)
– Phú pháp kệ
– Và một số tác phẩm khác
32- Pháp Liên (1800-1860)
– Pháp hoa quốc ngữ kinh
33- Đoàn Minh Huyên (1807-1856)
– Sấm giảng
34- ĐiềmTịnh (1836-1899) và Như Như
– Hàm long sơn chí
– Dương xuân sơn chí
– Đạo trang thi tập (Như Như)
– Thiền môn tòng thuyết (Điềm Tịnh)
35-Thanh Lịch (1830-1900?)
– Lễ tụng tập yếu chư nghi
– Giới đàn tăng
– Thọ giới nghi chỉ
36- Nhất Thế Nguyên Biểu (1836-1906)
– Tỳ kheo ni giới bổn lược ký
– Và một số tác phẩm khác
37- Diệu Nghĩa (1850-1914)
– Tỳ ni Sa di oai nghi cảnh sách
– Và một số tác phẩm khác
38- Từ Phong (1864-1938)
– Quy nguyên trực chỉ giải âm
39- Tâm Tịnh (1874-1929)
– Tịnh độ nghi thức
40- ViênThành (1879-1929)
– Lược ước tùng sao
– 30 bài thơ Nôm
41- Chơn giám Trí Hải (1876-1950)
– Mông sơn thí thực diễn âm
– Tịnh độ huyền cảnh
42- Chân Đạo Chính Thống (1900-1968)
– Thủy nguyệt tùng sao
– Và một số thơ văn
43- Tỳ Ni Đa Lưu Chi (?-594)
– Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh
– Phật thuyết đại thừa phương quảng tổng trì kinh.
44- Đại Thừa Đăng (620-682?)
– Câu xá luận ký
-Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật ký
– Duy thức chỉ nguyên
45. Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644)
-Bồ đề yếu nghĩa
46- Đại Sán Thạch Liêm (1633-?)
– Hải ngoại kỷ sự
– Kim cang trực giải
– Ly lục đường thi
Vạn Hạnh
Mùa trung thu Phật lịch 2544 ( 2000 )
Lê Mạnh Thát
MỤC LỤC
· MỤC LỤC
· LỜI ĐẦU SÁCH
· PHẦN I
· LỜI DẪN VỀ LÝ HOẶC LUẬN
1- Vấn đề niên đại Lý hoặc luận
2- Quan điểm hiện đại về lý hoặc luận
3- Quan điểm của chúng tôi
· BẢN DỊCH LÝ HOẶC LUẬN
· PHỤ LỤC I
Mâu Tử và những đoạn phiền dật văn
· PHỤ LỤC 2
Dật văn từ Huệ Thông và Phạm Việp
Bác Di hạ luận
Lý hoặc luận
· PHẦN II
KHƯƠNG TĂNG HỘI
· LỜI DẪN VỀ KHƯƠNG TĂNG HỘI
I . Khương Tăng Hội cuộc đời và sự nghiệp
1. Khương Tăng Hội ở Việt Nam
2. Khương Tăng Hội ở Trung Quốc
3. Sự nghiệp phiên dịch và trước tác
II. Nghiên cứu về Lục độ tập kinh
1. Vấn đề truyền bản , tên gọi và niên đại
2. Vấn đè bản đáy
3. Những vấn đề ngôn ngữ của Lục độ tập kinh
4. Về sự tồn tại của nguyên bản tiếng Việt
5. Phân tích xuất xứ Lục độ tập kinh
6. Nội dung tư tưởng Lục độ tập kinh
7. Lục độ tập kinh và văn học Việt Nam
8. Tổng kết
· KINH LỤC ĐỘ TẬP
· BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT
· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN
LÝ HOẶC LUẬN
· NGUYÊN BẢN HÁN VĂN
LỤC ĐỘ TẬP KINH
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – Tập 2
Lê Mạnh Thát
NXB TP.HCM
Tựa
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam 2 bao gồm các tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội cùng sáu lá thư của Lý Miễu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Về những tác dịch phẩm còn lại của Khương Tăng Hội, thì trong tập 2 này chúng tôi cho công bố các nghiên cứu và bản dịch của Cựu tạp thí dụ kinh, Pháp kính kinh tự và An ban thủ ý kinh chú giải. Đây là những tác phẩm hiện được bảo lưu trong các truyền bản khác nhau, mà đầu thế kỷ XX Takakusu Junjiro đã cho khảo dị và in lại trong bộ Đại Chính tân tu đại tạng kinh (viết tắt ĐTK) vào những năm 1915-1925 của triều vua Đại Chính (Taiso) ở Nhật Bản. Sáu lá thư của Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh cũng được xuất bản trong bản in ấy. Chúng tôi đã sử dụng bản in vừa nói cho việc nghiên cứu phiên dịch các tác dịch phẩm vừa nêu.
Trong Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc, nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).
Tổng tập 2 này cũng bao gồm phần nghiên cứu và bản dịch kinh Tạp thí dụ. Đây là một bản kinh, mà các kinh lục Trung Quốc thường xếp vào loại thất dịch của đời Hán, nghĩa là một bản dịch không biết do ai thực hiện. Vì bản thân bản kinh có chứa đựng một số ngôn ngữ mang tính chất ngữ pháp tiếng Việt, gần gũi với văn phong của Khương Tăng Hội, nên để cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và đời sống văn hóa Việt Nam, chúng tôi cho đưa vào phần phụ lục các tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội.
Giống như Tổng tập 1, Tổng tập 2 này cũng sẽ có phần phụ bản chữ Hán, nhằm cung cấp cho người đọc những tư liệu tham khảo và nghiên cứu khi cần thiết.
Vạn Hạnh
Tết Nguyên Đán năm Tân Tỵ (2001)
Lê Mạnh Thát
Mục Lục
Tựa
Phần 1: Khương Tăng Hội và một số dịch phẩm
- Giới thiệu kinh Cựu tạp thí dụ
- Giới thiệu Pháp kính kinh tự
- Giới thiệu An ban thủ ý kinh chú giải
- Giới thiệu Tạp thí dụ kinh
Phần II: Sáu lá thư
- Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh
- Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử
- Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch
- Về tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
- Niên đại của Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Bản dịch Sáu lá thư
Nguyên Bản Hán Văn
TỔNG TẬP VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM – tập 3
LÊ MẠNH THÁT
LỜI NÓI ĐẦU
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1. Đó là “sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác giả, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX“.
Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển tập anh ra đời sớm lắm thì cũng từ năm 1337, tức là sau các tác giả như Trần Thái Tông, Tuệ Trung , Trần Nhân Tông v.v.. rất nhiều, mà phần lớn thuộc vào thế kỷ thứ XIII. Thêm vào đó, nếu chấp nhận giả thiết của chúng tôi về tác giả Thiền uyển tập anh là thiền sư Kim Sơn, thì niên đại càng muộn màng hơn nữa, vì Kim Sơn phải sống cho đến lúc vua Trần Minh Tông mất vào năm 1357.
Tuy thế, vì Thiền uyển tập anh là một tác phẩm tập hợp các tư liệu liên hệ tới giai đoạn Phật giáo từ khi Sáu lá thư ra đời cho đến lúc vua Trần Thái Tông lên ngôi. Cho nên, về một mặt nào đó, ta có thể coi Thiền uyển tập anh như một đại biểu cho văn học Phật giáo Việt Nam của giai đoạn ấy. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã đưa Thiền uyển tập anh vào Tổng tập 3 này .
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tựa
Phần I
Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh
I. Vấn đề truyền bản
1. Truyền bản đời Trần
2. Truyền bản đời Hồ
3. Truyền bản 6 quyển
4. Truyền bản đời Lê sơ
5. Truyền bản đời Lê I
6. Truyền bản đời Lê II
7. Truyền bản đời Nguyễn
8. Bản chép tay A.2767
9. Vấn đề chọn lựa truyền bản
II. Vấn đề tên gọi
III. Vấn đề soạn niên và tác giả
1. Thiền uyển tập anhlà một tác phẩm đời Trần
2. Thiền uyển tập anhđược viết vào năm 1337
3. Vấn đề tác giả Thiền uyển tập anh
IV. Những nguồn sử liệu và phương pháp viết sử
1. Những nguồn sử liệu cơ sở
2. Nguồn sử liệu phụ
3. Phương pháp viết sử
V. Vấn đề hiệu bản , phiên dịch và chú thích
Bảng hiệu đối
Phần II:
Bản dịch Thiền uyển tập anh
Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh
Thiền uyển tập anh ngữ lục-Quyển thượng
Thiền uyển tập anh ngữ lục – Quyển hạ
Dòng pháp của Tì Ni Đa Lưu Chi chùa Pháp Vân
PHẦN III
Chú thích Thiền uyển tập anh
Bài tựa in lại Thiền uyển tập anh
Thiền uyển tập anh bạt hậu
PHẦN IV
Bảng chỉ dẫn
PHẦN V
Nguyên bản Hán văn
Thảo luận về post