- Bài viết liên quan
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 1] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 2] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 3] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 4] – Gs. Lê Mạnh Thát
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP
Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000
GIỚI THIỆU
GIẢI TÂM KINH NGŨ CHỈ
Bát nhã ba la mật đa tâm kinh kể từ ngày Huyền Tráng (600-664) dịch đến nay, đã được phổ biến rộng rãi khắp các nước Phật giáo Viễn Đông, trong đó có nước ta. Tuy nhiên, nếu có ai hỏi kinh này được nhắc đến trong giới Phật giáo nước ta từ bao giờ, thì tư liệu đầu tiên giúp ta trả lời đó là một câu viết của Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo phú. Ở hội thứ 8 của bài phú này khi nói về việc phải rèn luyện con người Phật giáo mình như thế nào, Trần Nhân Tông đã viết :
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu,
Săn hỷ xả, nhuyến từ bi,
Nội tự tại kinh Lòng hằng đọc
Rõ ràng kinh lòng ở đây là một biệt dịch của chữ tâm kinh tiếng Hán. Và đây có thể nói là một trong những tên kinh được dịch tiếng Việt sớm nhất hiện biết. Trước Trần Nhân Tông và sau ông, chắc chắn kinh lòng đã được những người Phật giáo Việt Nam trì tụng, nhưng phải đợi đến Minh Châu Hương Hải, ta mới có những thông tin cụ thể về vai trò của bản kinh này trong đời sống học thuật và tu niệm của giới Phật giáo nước ta. Căn cứ vào Hương Hải thiền sư ngữ lục, ta biết Minh Châu Hương Hải đã viết 2 bản giải thích về kinh này, đó là Giải tâm kinh đại điên, 1 quyển và Giải tâm kinh ngũ chỉ, 1 quyển. Bản chú giải đầu ngày nay hiện chưa tìm lại được. Bản sau, tức Giải tâm kinh ngũ chỉ, ta đã tìm thấy .
I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Bản Giải tâm kinh ngũ chỉ mà chúng tôi hiện sở hữu là 1 bản in năm Minh Mạng thứ 14 (1833), gồm 5 tờ khổ 17*29, mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 17 chữ Hán chính văn cỡ lớn, còn chữ quốc âm thì mỗi dòng như thế được in thành 2 hàng, mỗi hàng có 16 chữ cỡ nhỏ. Chữ in đẹp, rõ ràng, dễ đọc. Bản in này không có tựa và bạt. Nhưng dưới nhan đề Bát nhã ba la mật đa tâm kinh, có ghi tỳ kheo Từ Tường trùng san. Và ở tờ cuối, dòng chót dưới đề kinh, ta có dòng “Bản lưu tại Linh Sóc Thiền tự, dĩ hiểu hậu lai”. Thế có nghĩa, bản Giải tâm kinh ngũ chỉ này cũng do thiền sư Từ Tường đứng in cùng 1 lần với Giải Di Đà kinh, dù trong lời tựa Trùng san chư kinh tự in ở đầu Giải Di Đà kinh không thấy nhắc gì tới Giải tâm kinh ngũ chỉ cả. Ngoài ra trong bản này, dưới tên của pháp tử Chân Lý Nhân Triều, có khắc thêm tên Tỳ kheo Chiếu Kiên. Vị tỳ kheo này chắc chắn là người đã đứng ra ủng hộ việc khắc bản này. Về 2 vị thiền sư này ta hiện không có chi tiết về năm tháng cũng như tiểu sử của họ, nên ở đây ta không thể bàn kỹ hơn. Chỉ cần ghi nhận rằng, họ là những vị thiền sư thuộc thế kỷ 19 đóng góp vào việc xuất bản các tác phẩm Phật giáo thời mình .
II. TÊN GỌI VÀ NIÊN ĐẠI
Tác phẩm này trong bản in hiện nay có nhan đề Bát nhã ba la mật đa tâm kinh, và ghi tiếp là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu thích giải. Nhưng trên gáy của tất cả các tờ kinh, trừ tờ thứ tư, đều ghi Bát nhã tâm kinh thích giải hoa ngôn. Gáy tờ thứ tư chỉ ghi đơn giản là Bát nhã tâm kinh. Tuy nhiên, trong Hương hải thiền sư ngữ lục ta thấy ghi Giải tâm kinh đại điên, 1 quyển và Giải tâm kinh ngũ chỉ, 1 quyển. Dĩ nhiên, bản thích giải mà chúng ta hiện sở hữu, chắc chắn không phải là Giải tâm kinh đại điên, bởi vì bản chú giải này, dẫu ngày nay ta chưa tìm được, rõ ràng là một bản giải thích tâm kinh theo quan điểm của Thiền sư Đại Điên đời Thanh, hiện còn bảo lưu trong Tục tạng kinh, gọi là Tâm kinh chú giải, bởi vì khi phân tích bản tâm kinh chúng ta hiện có của Minh Châu Hương Hải, ta thấy nó không ăn nhập gì với bản chú giải của tổ sư Đại Điên cả. Ngược lại bản in lần này trong phần giải thích bằng tiếng Việt, Minh Châu Hương Hải nói rất rõ :”Một Bát nhã tâm kinh này, lấy làm chí tinh chí yếu, là mẹ đại bộ chư kinh, truyền sang Đông độ đã 5 lần dịch, đến đời Đường, Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu dịch truyền để Đông độ lấy làm chính giáo thịnh hành Bát nhã tâm kinh, lập ngũ chỉ làm đề mục…”. Vậy, khi giải thích Bát nhã tâm kinh, Minh Châu Hương Hải đã lấy 5 lý chính làm đề mục để viết nên nó. Chắc chắn bản ta hiện có là Giải tâm kinh ngũ chỉ, chứ không phải Giải tâm kinh đại điên. Như thế, giữa những tên khác nhau của tác phẩm này, chúng tôi chấp nhận cách gọi của Hương hải thiền sư ngữ lục. Nghĩa là thay vì gọi Bát nhã tâm kinh thích giải hoa ngôn, hoặc hàm hồ hơn là Bát nhã tâm kinh, chúng tôi đề nghị gọi nó là Giải tâm kinh ngũ chỉ .
Về thời điểm Minh Châu Hương Hải viết Giải tâm kinh ngũ chỉ này, ta hiện không có tài liệu nào cụ thể. Hương hải thiền sư ngữ lục đã không ghi nhận bất cứ thông tin nào giúp ta đoán định được thời điểm ra đời của nó. Nếu căn cứ vào nội dung, có một số điểm theo chúng tôi, có thể ít nhiều ám chỉ thời điểm xuất hiện của nó. Thứ nhất, khi giải thích về chữ Xá Lợi Tử, Minh Châu Hương Hải đã viết trong Giải tâm kinh ngũ chỉ :”Xá là tứ đại sắc thân, như cả nhà, Lợi Tử là pháp tính, như chủ nhà, Phật đệ tử trí tuệ đệ nhất”. Một giải thích như thế ta đã không tìm thấy trong Giải Di Đà kinh. Về trưởng lão Xá Lợi Phất, Giải Di Đà kinh chỉ viết :”Ông Xá Lợi Phất cửu tu, đức trưởng, trí tuệ đệ nhất”. Khi viết thế, Giải Di Đà kinh đã giả thiết, nghĩa đen của chữ Xá Lợi Phất đã được giải thích ở một chỗ khác. Do thế, ta có thể kết luận Giải tâm kinh ngũ chỉ phải viết trước Giải Di Đà kinh .
Hơn nữa khi giải thích về chữ thần chú trong Giải tâm kinhh ngũ chỉ, Minh Châu Hương Hải viết rất rõ:”Năm câu thần chú ấy là lời Bát nhã mật thuyết, chẳng được giải ra 1 câu. Tượng vì những lời Phật tuyên thuyết mật ngữ, chẳng phải hạ phàm được hay vậy. Như kinh Pháp hoa, lời sớ sao giải rằng, thần chú thật những danh hiệu thần vương. Dầu có xướng hiệu thần vương, quyến thuộc bộ chúng đều cùng vâng lệnh, hay hàng phục hết thảy quỷ mị. Lại rằng, thần chú như mật lệnh trong quân, dầu nghe hiệu lệnh, đều cùng vâng phép, chẳng dám lậu ngôn vấn đáp. Lại rằng, thần chú là tuỳ nguyện vậy. Dụ như quả loã là giống cái ong tò vò bắt lấy tang trùng cùng giống sâu bọ, đem vào ổ mà chúc nguyện, bèn hoá nên giống mình. Chư Phật bồ tát mật thuyết thần chú, nguyện chư chúng sinh, ắt tùy thửa nguyện, đều được thành tựu vậy”. Một giải thích dài dòng như thế về thần chú đã không tìm thấy trong Giải Di Đà kinh. Đây là một chứng cớ khác, cho phép ta giả thiết Giải tâm kinh ngũ chỉ phải viết trước Giải Di Đà kinh .
Ngoài ra, khi so sánh với Giải kim cương kinh lý nghĩa, một tình trạng tương tự đã xảy ra. Trong Giải Kim cương kinh lý nghĩa, về chữ Bát nhã ba la mật, Minh Châu Hương Hải đã viết:”Phạn ngữ Bát nhã, Hoa ngôn gọi là trí tuệ, hay đoạn hết tham sân si, diệt rồi chư phiền não, tính thể hư dung, chiếu dùng tự tại, gọi là Bát nhã. Phạn ngữ Ba la mật, Hoa ngôn là đáo bỉ ngạn, muốn đến bỉ ngạn, phải nương Bát nhã vậy. Thử ngạn là chúng sinh tạo nghiệp, chưa khỏi sinh tử luân hồi,còn ở ta bà cực khổ. Bỉ ngạn là chư Phật bồ tát đã siêu việt chân như cảnh giới, thường trụ thanh tịnh cực lạc”. Trong Giải tâm kinh ngũ chỉ, 1 giải thích như thế đã không được nêu ra. Điều này có nghĩa Giải Kim cương kinh lý nghĩa phải viết trước Giải tâm kinh ngũ chỉ. Vậy trong số 3 tác phẩm giải thích kinh của Minh Châu Hương Hải, ta thấy Giải Kim cương kinh lý nghĩa đã viết trước, rồi đến Giải tâm kinh ngũ chỉ, và sau cùng là Giải Di Đà kinh .
Trong phần phân tích về Giải Kim cương kinh lý nghĩa, chúng tôi đã gợi ý dựa trên 1 số dữ kiện nội tại, là có khả năng bản giải thích này đã viết khi Minh Châu Hương Hải còn ở tại đàng trong, nghĩa là trước năm 1682, rồi sau đó mới được ghi lại ở đàng ngoài. Nếu giả thiết này đúng, thì Giải tâm kinh ngũ chỉ phải viết sau năm 1682. Nhưng Giải Di Đà kinh theo chúng tôi cũng có thể viết rất sớm, tức sau năm 1682 không bao lâu. Do thế khả năng xuất hiện của Giải tâm kinh ngũ chỉ vào khoảng những năm 1682 là gần với hiện thực nhất. Và điều này hoàn toàn phù hợp với 1 sự kiện khác trong cuộc đời cầm bút của Minh Châu Hương Hải. Đó là việc Minh Châu Hương Hải viết Giải tâm kinh đại điên. Bản giải thích này dựa chủ yếu vào Tâm kinh chú giải của thiền sư Đại Điên và vị thiền sư này theo chúng ta biết là phải sống vào đời Thanh, nghĩa là sau năm 1644. Tác phẩm của Đại Điên do thế có thể đến nước ta sau năm này.
Và có lẽ khi tiếp xúc với Tâm kinh chú giải, Minh Châu Hương Hải mới nghĩ đến việc viết Giải tâm kinh ngũ chỉ, để bổ sung cho những gì mà ông thấy thiếu trong Tâm kinh chú giải của Đại Điên. Tất nhiên cũng có người sẽ nêu ý kiến là vì viết Giải tâm kinh ngũ chỉ trước, nên khi tiếp xúc với Tâm kinh chú giải, ông mới viết thêm Giải tâm kinh đại điên để bổ sung cho tác phẩm trước của mình. Đây là điều có thể.Tuy nhiên, thông thường thì do việc trình bày tác phẩm của người khác mà có 1 số thiếu sót cần bổ sung, tác giả mới cần viết thêm 1 tác phẩm nữa. Cho nên chúng tôi nghiêng về khả năng Giải tâm kinh ngũ chỉ được viết trước Giải tâm kinh đại điên. Nói tóm lại, thời điểm ra đời của Giải tâm kinh ngũ chỉ có thể rơi vào khoảng cuối thế kỷ 17, tức từ những năm 1685-1700.
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Giải thích về Bát nhã tâm kinh trong lịch sử tồn tại của nó có nhiều cách khác nhau và nhiều cây bút nổi tiếng đã tham gia vào công tác giải thích này như Khuy Cơ, Tuệ Trung của đời Đường, rồi Đạo Long, Thủ Thiên, Đạo Giai của đời Tống, tiếp theo là Nguyễn Hiền, Chân Khả, Đức Thanh, Hoằng Tán của đời Minh v.v… Hàng chục tên tuổi đã chịu sức hấp dẫn của bản kinh này, và họ tìm cách lý giải ý nghĩa của bản kinh đối với họ. Giải tâm kinh ngũ chỉ của Minh Châu Hương Hải không nói rõ ông đã dựa vào đâu để viết bản giải này. Tuy nhiên, ông chỉ ra rất rõ quan điểm của ông. Trước hết, ông nêu ra 5 đề mục mà được ông gọi là ngũ chỉ để giải thích kinh. Ông viết :”Ngũ chỉ là danh, thể, tôn, dụng, tướng. Lấy đơn pháp làm danh, lấy thật tướng làm thể, lấy quán chiếu làm tôn, lấy độ khổ làm dụng, lấy đại thừa làm giáo tướng. Đơn pháp là Bát nhã ba la mật đa. Thật tướng là chư pháp không tướng. Quán chiếu là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ khổ là độ nhất thiết khổ ách. Đại thừa là Bồ tát hành thâm bát nhã”.
Khi viết thế, Minh Châu Hương Hải đã trình bày cho ta một cách hiểu về Tâm kinh bát nhã. Tâm kinh bát nhã thể hiện thế nào, Minh Châu Hương Hải bảo là phải hiểu theo 5 mặt khác nhau của nó, tức là danh, thể, tôn, dụng và tướng. Danh là tên của kinh, và đồng thời cũng là tên của mục tiêu, đó là Bát nhã ba la mật đa. Bản chất của tên này là tướng không của các pháp, tức thể của nó. Ý nghĩa của quan niệm thể này là nhằm nhìn rõ bản chất của 5 uẩn, tức của toàn bộ sự vật, đều là tính không. Đó là tôn chỉ của bản kinh này. Đây là điểm quan trọng nhất, vì có thực hiện được tôn chỉ này để thấy được toàn bộ sự vật có tính không, thì hành giả mới vượt qua mọi khổ ách, tức đạt đến tác dụng của bản kinh. Và để có tác dụng đó, hành giả phải thực hành thâm bát nhã .
Đây là 1 lối tìm hiểu và giải thích kinh Bát nhã theo 1 hướng mới, tạo cho những người đọc tụng những bản kinh này 1 nhận thức mới, để hiểu vì sao họ phải đọc tụng nó. Trong lịch sử chú giải Tâm kinh bát nhã của Trung quốc, 1 lối giải thích như thế tuy đôi lúc cũng có nói tới, nhưng không dứt khoát và rõ ràng như những gì Minh Châu Hương Hải đã làm ở đây. Như vậy, đây là 1 đóng góp mới không những cho việc tìm hiểu lịch sử sớ giải kinh điển Phật giáo tại Việt Nam và quá trình hình thành tư tưởng của chính bản thân Minh Châu Hương Hải, mà còn là của lịch sử sớ giải của Phật giáo ở Viễn Đông, tức những nước như Trung quốc, Nhật bản và Triều Tiên .
Tuy nhiên, khi viết Giải tâm kinh ngũ chỉ Minh Châu Hương Hải đã đưa ra 1 số kiến giải mà ngày nay đọc lại ta thấy có 1 số khuyết điểm. Chẳng hạn, ngay câu đầu tiên khi giải thích câu hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, Minh Châu Hương Hải đã viết :”Hành thâm là bát nhã điều hành, chẳng phải sơ tâm thiển trí hằng nương bát nhã mà tu hành trong 12 giờ, viên minh chính niệm, giải hạnh đẳng trì, thể dụng như như, là rằng làm cả trí tuệ đến ngàn Phật khi ấy”. Thế là, Minh Châu Hương Hải đã dịch câu hành thâm bát nhã ba la mật đa thời bằng câu tiếng Việt làm cả trí tuệ đến ngàn Phật khi ấy, trong đó, ngàn có nghĩa là bờ, cả nghĩa là để dịch chữ thâm. Đây phải nói là 1 câu dịch khó hiểu, thể hiện lối dịch đuổi đã xảy ra thời Viên Thái và Nguyễn Thế Nghi. Có khả năng đây là 1 câu dịch đuổi đã có trong 1 bản dịch tiếng Việt lưu hành trước thời Minh Châu Hương Hải. Cần nhớ rằng, trong Cư trần lạc đạo phú, Trần nhân Tông đã nhắc tới tên tiếng Việt của Tâm kinh là kinh lòng .
Không những lối dịch đuổi vừa nói đã xuất hiện trong bản giải thích này nó còn chứa đựng 1 số cắt nghĩa khá lạ lùng. Chẳng hạn khi giải thích 3 chữ Xá Lợi Tử, Minh Châu Hương Hải đã viết:”Xá là tứ đại sắc thân như cái nhà, Lợi Tử là pháp tính như chủ nhà”.Lối giải thích này hầu như không thấy trong các lối sớ giải tiếng Trung quốc. Ngược lại, 1 bản sớ giải viết tại nước ta và có thể coi như bản sớ giải xưa nhất của nền văn học sớ giải của Phật giáo Viễn Đông, đó là An ban thủ ý kinh chú giải. Trong bản chú giải này, lối tách rời những phiên âm chữ Phạn ratừng chữ đơn để giải thích đã xảy ra. Chẳng hạn để giải thích chữ An ban, Phật thuyết đại an ban thủ ý kinh quyển thượng, ĐTK 602 tờ 163c20-29 đã viết :”An là thân, ban là hơi thở…an là sinh, ban là diệt…, an là nghĩ đạo, ban là giải kết…, an là tránh tội, ban là không vào tội…, an là định, ban là không khiến cho dao động v.v…”. Bản chú giải này, ta biết là do Khương Tăng Hội viết. Hơn 1000 năm sau khi ông đã mất, Minh Châu Hương Hải lại sử dụng lối giải thích này .
Có người sẽ hỏi tại sao trong hơn 1000 năm qua như thế, không có tiến bộ nào trong cách thức lý giải kinh điển hay sao? Theo chúng tôi nghĩ, cách thức lý giải kinh điển Phật giáo của Việt Nam dù có những khuyết tật gì đi chăng nữa, vẫn có 1 sức sống dai dẳng. Thí dụ cụ thể cho 1 khẳng định như thế hiện chưa tìm thấy. Nhưng 1 trường hợp tương tự có thể giúp ta hiểu được vấn đề này. Đó là việc sử dụng từ ma ha.Trong Hải ngoại ký sự, Thạch Liêm Đại Sán (1633-1704) đã chép lại những bàn cãi giữa ông và Hào đức hầu Nguyễn Hữu Hào (?-1713), tác giả nổi tiếng của Song tinh bất dạ, về trăng ma ha và gió bát nhã. Thạch Liêm cho rằng trăng ma ha không thể đối chỉnh với gió bát nhã được, mà nên dùng chữ trăng bồ đề… Trong khi đó, Nguyễn Hữu Hào lại chủ trương chữ trăng ma ha vẫn đối chỉnh với gió bát nhã, rồi còn dẫn lời người xưa nói:”Ma ha là bản thể chân như, lớn không ngoại, nhỏ không trong, trời chẳng hay che, đất chẳng hay chờ, sáng sủa soi khắp mọi nơi”. Chúng ta không bàn đến việc đúng hay sai ở đây, như Thạch Liêm đã làm, điểm lôi cuốn chúng ta là từ trăng ma ha này trước và sau Nguyễn Hữu Hào vẫn tiếp tục được dùng .
Trước Nguyễn Hữu Hào, Đào Duy Từ trong Tư dung vãn, đã viết :
Chốn thanh gợi một danh lam,
Ước tay tiêu sái mới cam dựa nhờ.
Linh chi rước nước ma ha,
Trân cầm chiu chít, kỳ hoa lăng tằng…
Rồi không phải đợi đến Đào Duy Từ mà trước đó nữa, trong Vịnh Vân Yên tự phú, Huyền quang đã viết :
Khuya sớm sáng chong đèn bát nhã,
Hôm mai rửa sạch nước ma ha .
Rồi sau những bàn cãi của Thạch Liêm với Nguyễn Hữu Hào, thiền sư Toàn Nhật (1750-1832?) trong Tham thiền văn, vẫn tiếp tục dùng lại từ ma ha này :
Bỏ sang giàu tìm ba đường khổ,
Nương ngụ nhờ lều cỏ ba căn,
Tìm đâu cho khổ nhiều đàng
Kìa non Bảo tự, nọ miền ma ha
Cảnh nào cảnh chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có toà anh linh
Qua trường hợp từ ma ha này, ta thấy những người cầm bút Phật giáo Việt Nam có những cách dùng từ và giải thích từ không hoàn toàn đồng nhất với Phật giáo Trung quốc. Cho nên, dù lối giải thích Xá Lợi Tử của Minh Châu Hương Hải có những gượng ép, nó ít nhiều cũng thể hiện cách viết sớ giải của Phật giáo Việt Nam, mà từ Khương Tăng Hội trở đi đã hình thành 1 nét riêng của nó. Đây là 1 điểm ta cần chú ý khi tiếp cận với nền văn học Phật giáo Việt Nam
Huyền Cơ Thiện Giác pháp tự Minh Châu thích giải
Pháp tử Chân lý Nhân Triều thuật.
Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh
Nương lời trong kinh dịch rằng Thích Ca Thế Tôn thửa trú trong non Linh Thứu, vào tọa thiền, nhập Quang minh đại định. Khi ấy Xá Lọi Tử bạch Quán Tự Tại bồ tát rằng:”Dầu có chúng sinh tu hành, muốn học cửa pháp Bát nhã thậm thâm vi diệu, rằng làm sao cho hiểu thấy được”. Quán Tự Tại Bồ tát bèn dạy bảo Xá Lợi Tử rằng:”Thích Ca Thế Tôn diễn thuyết đại bộ Bát nhã 600 quyển, một Bát nhã tâm kinh này lấy làm chí tinh chí yếu, là mẹ đại bộ chư kinh”. Truyền sang Đông độ, đã 5 lần dịch, đến đời Đường, Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu dịch, truyền để Đông độ lấy làm chính giáo thịnh hành. Bát nhã tâm kinh lập ngũ chỉ làm đề mục. Ngũ chỉ là danh (1b)2, thể, tôn, dụng, tướng. Lâý đơn pháp làm danh, lấy thật tướng làm thể, lấy quán chiếu làm tôn, lấy độ khổ làm dụng, lấy đại thừa làm giáo tướng. Đơn pháp là Bát nhã ba la mật đa tâm kinh. Thật tướng là chư pháp không tướng. Quán chiếu là chiếu ngũ uẩn giai không. Độ khổ là độ nhất thiết khổ ách. Đại thừa là Bồ tát hành thâm bát nhã .
Quán Tự Tại bồ tát
Quán là bát nhã tuệ quán. Tự tại là ở nơi mình, thân tâm thanh tịnh viên dung vô ngại. Bồ là bồ đề. Bồ đề là Phật. Tát là tát đoả. Tát đỏa là chúng sinh. Quyền độ nội ngoại chúng sinh, hằng thường giác tự giác tha, gọi là Quán Tự Tại bồ tát .
Hành thâm Bát nhã ba la thời
Hành thâm là bát nhã diệu hạnh, chẳng phải sơ tâm thiển trí, hằng nương bát nhã, mà tu hành trong 12 giờ viên minh chính niệm, giải hạnh đẳng trì, thể dụng như như, là rằng làm cả trí tuệ đến ngàn Phật khi ấy .
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Chiếu là chiếu liễu, (kiến là) chính kiến, ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là tứ đại huyễn sắc. Sắc là (2a) vọng thân. Thọ, tưởng, hành, thức là vọng tâm. Thân tâm huyễn vọng, ngũ uẩn chư pháp đều về chân không .
Độ nhất thiết khổ ách
Độ là độ thoát hữu tình. Hết thảy thế gian chúng khổ ách nạn, nhân bởi vô minh bất giác điên đảo vọng tưởng, hằng làm bất trung bất hiếu, thập ác ngũ nghịch, tùy thân thọ quả, phải chịu bát khổ ách nạn. Rày nương cửa pháp bát nhã mà tu, độ thoát hết thảy khổ ách .
Trước kinh tự ấy, gọi làm tự phần .
Xá Lợi Tử
Xá là tứ đại sắc thân như cái nhà. Lợi Tử là pháp tính như chủ nhà. Phật đệ tử trí tuệ đệ nhất, nhân thửa vì tứ chúng, bèn hỏi:”Quán Tự Tại bồ tát bèn gọi Xá Lợi Tử mà bảo rằng .
Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc .
Phàm phu chấp sắc, Phật rằng sắc chẳng khác không. Ngoại đạo chấp không, Phật rằng không chẳng khỏi sắc. Nhị thừa xả sắc xả không. Phật rằng huyễn sắc huyễn không, ắt thật (2b) chân không. Bồ tát quyền dùng chân không, Phật rằng chân không ắt thật diệu sắc. Chân không là bát nhã dụng. Diệu sắc là chân như thể. thể dụng như như, vốn nguyên thật tướng .
Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị
Thọ là lãnh nạp, uẩn tích chư thọ. Tưởng là tư lự, uẩn tích chư tưởng. Hành là tạo tác, uẩn tích chư hành. Thức là phân biệt, uẩn tích chư pháp. Thọ tưởng hành thức ắt lại cũng vậy .
Xá Lợi Tử thị chư tướng không tướng
Quán Tự Tại bồ tát lại bảo Xá Lợi Tử :”Thật ngũ uẩn chư pháp không tướng, ắt những chân không thật tướng vậy”.
Bất sinh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm
Thật tướng chẳng có sinh, chẳng có diệt, chẳng có cấu tịnh, há có tăng giảm .
(3a) Thị cố không trung vô sắc vô thọ tưởng hành thức
Thật vì vậy trong chân không, thật tướng chẳng có sắc là chẳng có tứ đại vọng thân, chẳng có thọ tưởng hành thức, là chẳng có phiền não vọng tâm .
Vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý
Trong chân không thật tướng, chẳng có nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý là chẳng có lục căn .
Vô sắc thanh hương vị xúc pháp
Trong chân không thật tướng, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp là chẳng có lục trần, là chẳng có thập nhị nhập .
Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới
Trong chân không thật tướng, chẳng có nhãn thức, chẳng có nhĩ thức, chẳng có tỉ thức, chẳng có thiệt thức, chẳng có thân thức, chẳng có ý thức, là chẳng có học thức. Chẳng có lục căn, lục trần, lục thức, là chẳng có thập bát giới, ấy là nhân không .
Vô vô minh diệc, vô vô minh tận
Trong chân không thật tướng, ắt chẳng có mê ngộ. Chẳng có mê, ắt chẳng có vô minh (3b1) Chẳng có ngộ, ắt chẳng có minh, mà khiến vô minh tận .
Nãi chí vô lão tử, diệt vô lão tử tận
Trong chân không thật tướng, nguyên chẳng có sinh diệt. Chẳng có sinh ắt chẳng có lão tử. Chẳng có diệt ắt chẳng có sinh, mà khiến lão tử tận. Chẳng có thập nhị nhân duyên, ắt chẳng có duyên giác trong thừa pháp .
Vô khổ tập diệt đạo
Khổ là quả thọ bát khổ. Tập là nhân tập tham sân si. Ấy là thế gian pháp. Diệt là tịch diệt niết bàn. Đạo là tam thập thất phẩm trợ đạo, là xuất thế gian pháp. Chẳng có khổ tập diệt đạo là chẳng có thinh văn tiểu thừa pháp .
Vô trí diệt vô đắc
Trí là bát nhã trí. Đại thừa bồ tát dùng trí mà chiếu cảnh. Đã chẳng có ngũ uẩn căn trần thức, lại chẳng có tứ thánh đế, thập nhị nhân duyên, ắt thật nhân pháp đều không, cảnh trí đều rồi, như bệnh khử diệt vong. Nguyên thật tướng chẳng có ngu, ắt chẳng có trí. Chẳng có thất, ắt chẳng có đắc.
(4a) Dĩ vô sở đắc cố
Những bậc tu hành chứng vị viên đốn, chẳng còn năng đắc bèn chẳng có sở đắc vậy.
Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố
Bồ đề tát đỏa là năng y chi nhân, bát nhã ba la mật đa là sở y chi pháp. Những bậc bồ tát nương cửa bát nhã mà tu, công nên, lý hiển, bèn lòng chẳng quái ngại, cũng chẳng có quái ngại vậy.
Vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn
Lòng chẳng có nghiệp buộc, nhân chẳng có nghiệp buộc, bèn chẳng có sinh tử. Đã chẳng có sinh tử khủng bố ắt chẳng có vọng nghiệp, bèn xa khỏi điên đảo mộng tưởng. Tam chướng đã rồi, bèn hiển tam đức, sinh tử ắt chứng pháp thân, phiền não ắt nên bát nhã, kết nghiệp bèn nên giải thoát đều cùng cứu cánh niết bàn.
Từ ấy về trước là chánh tôn phần, từ nay về sau là lưu thông phần.
(4b) Tam thế chư Phật, y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề
Tam thế Như Lai dầu quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đều nương bát nhã pháp mà tu, bèn chứng nên tối thượng quả vị vậy.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú
Trước đã hiển thuyết bát nhã, sau lại mật thuyết bát nhã. Nhân bởi chúng sinh căn khí bất đồng, bèn thuyết tứ chủng mật chú, đều bởi bát nhã công dụng, hay phá ma chướng gọi là đại thần chú, hay diệt si ám gọi là đại minh chú, hay hiển chí lí gọi là vô thượng chú, cực diệu giác quả gọi là vô đẳng đẳng chú.
Năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư
Bát nhã công dụng quảng đại, trừ khổ bèn được lạc, quyết định chẳng giải đạo (5a) khiến hết chúng sinh đều tín thọ phụng hành.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết
Vì vậy hay bát nhã ba la mật đa chú, bèn thuyết thần chú rằng :
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha
Năm câu thần chú ấy là lời bát nhã mật thuyết, chẳng được giải ra một câu, tượng vì những lời Phật tuyên thuyết mật ngữ, chẳng phải hạ phàm được hay vậy. Như kinh Pháp hoa, lời sớ sao giải rằng, thần chú thật những danh hiệu thần vương, dầu có xưng hiệu thần vương, quyến thuộc bộ chúng, đều cùng vâng lệnh, hay hàng phục hết thảy quỉ mị. Lại rằng thần chú như mật lệnh trong quân, dầu nghe hiệu lệnh đều cùng vâng phép chẳng dám lậu ngôn vấn đáp. Lại rằng thần chú là tùy nguyện vậy. Dụ như quả loã là giống cái ong tò vò, bắt lấy tang trùng cùng giống sâu bọ, đem vào ổ mà chú nguyện, bèn hóa (5b) nên giống mình. Chư Phật bồ tát mật thuyết thần chú, nguyện chư chúng sinh ắt tùy sở nguyện đều được thành tựu vậy.
Bát nhã thị chư Như Lai mẫu
Tiêu trừ thất nạn tam tai khổ
Thiên cung niệm trụy đỉnh sanh vương
Hạ giới tùng linh ban túc ngộ
Thử kinh phó chúc ngã đế vương
Vị dư quần sanh tác vi hổ
Lưu ân giáng phước nguyện từ bi
Thời dự đạo thái dân an đỗ.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
SỰ LÝ DUNG THÔNG
Trong số 20 tác phẩm của Minh Châu Hương Hải ghi lại trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, ta thấy có ghi Soạn Sự lý dung thông 1 quyển. Và đây là tác phẩm hện tại đã tìm thấy viết bằng thơ song thất lục bát. Những tác phẩm kia, có tác phẩm nào viết bằng văn vần nữa không, ta hiện không thể trả lời dứt khoát. Dẫu sao đi nữa, với 4 tác phẩm đã tìm lại được của Minh Châu Hương Hải, ta thấy đây là tác phẩm bằng thơ duy nhất. Vì nó sử dụng lối thơ song thất lục bát, nên Sự lý dung thông có thể coi như cùng với Tư dung vãn và Ngoạ long ngâm của Đào Duy Từ, là những tác phẩm xuất hiện tương đối sớm của thể thơ này trong lịch sử văn học dân tộc ta.
I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Văn bản Sự lý dung thông mà chúng tôi hiện có là bản in trong Việt Nam Phật điển tùng san, quyển thứ tư, năm 1943, do trường Viễn Đông bác cổ Pháp giúp đỡ và Hội Phật giáo Bắc Kỳ phát hành. Việt Nam Phật điển tùng san là một bộ sách gồm cả thảy 8 quyển do Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ, trong đó có các hòa thượng như Quang Minh chùa Cảnh Linh, Thanh Thịnh, chùa Hưng Long, Doãn Hài chùa Bảo Khám, Thanh Tích chùa Thiên Trù, Tâm Đức chùa Anh Ninh và thiền sư Tuệ Tạng kết hợp với trường Viễn Đông bác cổ Pháp, để công bố các sử liệu liên quan đến Phật giáo Việt Nam tàng trữ tại thư viện của trường ấy.
Nhưng mới làm được nửa chừng, tức mới tới quyển thứ 8 thì những biến cố chính trị năm 45 xảy ra, rồi sau đó toàn quốc đi vào kháng chiến nên đã ngưng lại. Việc ra đời của Việt Nam Phật điển tùng san này là một sáng kiến hay, nhằm cung cấp tư liệu nghiên cứu về những lãnh vực khác nhau của đời sống và sinh hoạt tinh thần của dân tộc ta. Chỉ tiếc một điều là nó bị ngưng lại giữa chừng, và hai nữa là trong khi tiến hành cho in lại các tác phẩm văn học Phật giáo này, những người đứng chủ trương đã không làm đúng theo qui trình trong việc công bố các văn bản cũ. Nói cách khác, họ đã không cho ta biết những bản văn họ đưa ra in đã lấy từ đâu và tình trạng văn bản của chúng như thế nào. Văn bản Sự lý dung thông của chúng ta cũng nằm trong tình trạng như thế.
Tuy nhiên, căn cứ vào chính văn bản này thì ta biết nó được in kèm vào trong bộ Nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi. Bộ này in chung với bộ Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi và tạo nên nội dung của quyển 4 Việt Nam Phật điển tùng san. Từ tờ 2a1 đến tời 59b8 là thuộc về Lễ tụng hành nghi tập yếu chư nghi, còn từ tờ 60a1 đến tờ 129b8 là thuộc bộ Nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi. Căn cứ vào mục lục của bộ này ở tờ 1a6 đến 1b6, nội dung của Nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi gồm có một số kệ chú như Tảo khởi kệ chú, Tẩy diện kệ chú… cho đến Khất thục kệ chú, Kháng bệnh kệ chú v.v…. Rồi các kinh như Vô thường kinh, cùng một số nghi thức như Tân tống, nhập khám, trà tỳ hỏa đàn, nhập tháp, nhiễu tháp v.v… Và đặc biệt người viết Nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi đã gồm một loạt các văn bản tiếng Việt như Oai nghi quốc ngữ của Như Thị, Ngũ giới quốc âm và Thập giới quốc âm của Như Trừng (1696-1728) và Ni luật quốc âm của Tính Quảng và Sự lý dung thông của chúng ta nằm ở tờ 115a6 đến 119a5.
Ta không biết họ đã căn cứ vào văn bản nào để in lại Sự lý dung thông. Và trước lần họ in, Sự lý dung thông đã qua những lần in nào. Điều may mắn là ở cuối sách Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi tờ 129a6 – b8 có một bài nhan đề Tập yếu hậu tụng do Thông Cán trụ trì chùa Liên Hoa viết vào năm Thành Thái 14, Nhâm dần (1902) nói về lai lịch của tác phẩm này :”Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi là do luật sư Viên Giác chùa Vĩnh Khánh ở Bổ Đà rộng chọn các kinh, tìm lấy những điều rất đơn giản, học đòi những điều Phật tổ trước thường làm mà làm, phỏng theo những điều Phật tổ trước thường dùng mà dùng, uyển chuyển thuận theo thời cơ, châm chước mà làm ra khóa tụng hằng ngày. Bắt đầu với trì chú, lễ tán tam bảo, rồi cúng hương, sám hối, tụng kinh, niệm Phật, rồi tự bày tỏ sám hối, đảnh lễ Tây phương, phát nguyện hồi hướng, lễ tam tự quy. Lại thể theo thành quy của Từ Vân mà lược bớt sám nguyện hành nguyện, rộng tuân quy ước của Vân Thê mà có đủ các nghi hành trì, lần lượt rút gọn phân biệt giá trị, đề tên Tập yếu (…)”
Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi, như vậy là do Luật sư Viên Giác chùa Vĩnh Khánh núi Phổ Đà tập hợp các tư liệu xưa viết nên. Ngày nay, tuy chưa biết rõ niên đại của Luật sư Viên Giác này, nhưng ít nhất ta cũng biết tác phẩm của ông ít nhất đã ra đời vào thế kỷ 19. Vậy, Sự lý dung thông chắc chắn đã được Viên giác rút ra từ một bản in nào đó lưu hành vào thế kỷ 19. Văn bản Sự lý dung thông mà chúng ta sử dụng dù xuất hiện trong bản in Việt Nam Phật điển tùng san, vẫn có một tính cổ sơ nào đó. Đây là văn bản mà chúng tôi đang có về Sự lý dung thông, hiện tại nằm ở tờ 115a6-119a5 của quyển 4,5 Việt Nam Phật điển tùng san. Mỗi tờ có 2 mặt a và b, mỗi mặt có 8 dòng, mỗi dòng có 18 chữ, chữ in rõ ràng, đẹp.
Văn bản này có cả thảy 162 câu thơ viết theo thể song thất lục bát. Vì hiện tại, chúng tôi sở hữu một văn bản duy nhất, nên không biết văn bản này còn có những dị bản nào nữa không.
II. TÁC GIẢ, NIÊN ĐẠI VÀ TÊN GỌI
Văn bản do Việt Nam Phật điển tùng san công bố, dưới đầu đề Sự lý dung thông, không ghi tên tác giả, như đã làm với Ngũ giới quốc âm và Thập giới quốc âm của Như Trừng, Oai nghi quốc ngữ của Như Thị và Sa di ni học pháp oai nghi quốc âm của Tử Sầm lão nhân, tức Tính Quảng. Tuy nhiên, căn cứ vào Hương Hải thiền sư ngữ lục, ta thấy có ghi Soạn Sự lý dung thông, 1 quyển, trong số 20 tác phẩm của Minh Châu Hương Hải. Do thế, ta có thể coi bản Sự lý dung thông vừa nêu là của chính tác giả này. Thêm vào đó, nếu phân tích chính nội dung của Sự lý dung thông, thì về mặt học lý không có xu hướng tư tưởng gì đi ngược lại với những phát biểu mà ông đã đưa ra trong các tác phẩm được biết chắc chắn là do ông viết như Giải tâm kinh ngũ chỉ, Giải Di Đà kinh, và Giải Kim cương kinh lý nghĩa. Ngoài ra, về mặt ngôn từ, từ dùng trong Sự lý dung thông với số lượng từ Hán và chữ cổ nhiều, cũng là 1 điều cho thấy chỉ tính cổ sơ của tác phẩm này. Nói tóm lại, dù văn bản không ghi ai là tác giả, ta vẫn có thể xác định là của Minh Châu Hương Hải .
Thế thì Minh Châu Hương Hải đã viết Sự lý dung thông vào thời điểm nào? Hương Hải thiền sư ngữ lục, khi liệt kê 20 tác phẩm của Minh Châu Hương Hải, trước đó có ghi sự việc ông được trấn thủ Hiến trấn Lê Đình Kiên cấp cho ông hơn mẫu đất để ông dựng am thờ Phật tụng kinh và hành thiền. Điều này khiến ta có thể cho rằng ông đã viết các tác phẩm của mình trong thời gian ở tại chùa Nguyệt Đường của Hiến trấn, tức khoảng những năm từ 1685 đến 1715. Và như sẽ thấy trong phần phân tích nội dung dưới đây, khi đưa ra 1 mẫu người tu thiền lý tưởng, Minh Châu Hương Hải không phải xuất phát từ những kiến thức sách vở, mà chính từ cuộc sống của bản thân và thời đại mình, với những con người tuy thành đạt trong giới học thuật nho giáo, nhưng vẫn sống cuộc sống Phật giáo của mình. Đấy là những con người :
Dốc làm chí cả trượng phu,
Đạo nên trung hiếu, ân thù vẹn hai
Trong khi khó nhọc mựa nài,
Sức dùng hà đảm Như Lai viên thành
Và lời dặn dò của ông :
Ấy lời khuyên dặn người thiền tử,
Lý hiểu tường, sự giữ tiệm tu .
Với 1 giọng điệu và quan điểm như thế, rõ ràng Minh Châu Hương Hải không thể viết Sự lý dung thông khi ông còn trẻ, mà phải vào những năm ông đã lớn tuổi. Nói khác đi, Sự lý dung thông có khả năng được viết vào những năm trước và sau 1700 không lâu .
Văn bản mà chúng tôi có, có nhan đề là Sự lý dung thông. Nhưng căn cứ vào Hương hải thiền sư ngữ lục, thì ta có tên Soạn Sự lý dung thông, 1 quyển. Ở đây, chúng tôi vẫn gọi là Sự lý dung thông như văn bản đã có, vì nó đúng với nội dung của bài thơ, và không cần thêm chữ soạn ở trước nó .
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Với 162 câu, nội dung Sự lý dung thông có thể chia làm 3 phần. Phần đầu giới thiệu vấn đề, gồm từ câu 1 đến câu 12. Phần hai là phần chính của tác phẩm, gồm từ câu 13 đến câu 158, trình bày những vấn đề lý thuyết và thực tiễn của đời sống người tu thiền Việt Nam theo quan niệm của Minh Châu Hương Hải. Phần cuối cùng là phần kết luận, gồm 4 câu từ 159 đến 162, nhắn nhủ những người tu thiền cố gắng tiến tu để giúp đỡ, sửa sang, khuông phò sự nghiệp, mở mang Phật giáo. Như thế, phần chính của Sự lý dung thông chính là phần trình bày về lý thuyết và thực tiễn đời sống của người tu thiền. Phần trình bày về lý thuyết gồm từ câu 13 đến câu 136, trước hết nhấn mạnh đến việc tâm truyền của thiền tông bằng tư tưởng pháp nhẫn vô sinh. Pháp nhẫn vô sinh là 1 khái niệm đặc biệt của tư tưởng đại thừa, mà trong tiếng Phạn gọi là anuttikadharmaksanti, nhấn mạnh đến khía cạnh sống theo thực tế, tuân thủ theo quy luật phát triển của sự vật, không chống lại quy luật phát triển ấy của đời sống tu hành Phật giáo.
Xuất phát từ cuộc sống tuân thủ quy luật phát triển vận động của sự vật này, người Phật giáo sẵn sàng chấp nhận những diễn biến phát triển bên ngoài Phật giáo, và coi nó như 1 bộ phận của tư tưởng và lối sống Phật giáo. Đây là 1 nét đặc trưng của tư tưởng phát biểu trong kinh Kim cương, mà Minh Châu Hương Hải đã viết giải thích. Kinh Kim cương nói rất rõ :”Tất cả các pháp đều là Phật pháp”. Và Minh Châu Hương Hải đã giảng lại như sau trong Giải Kim cương kinh lý nghĩa :”Phât rằng, hết thảy chư pháp đều cũng dùng sự tu hành cho được thành đẳng chánh giác. Thiền gia dầu bỏ, ắt lỗi ý kinh. Khác nào chưa đến ngạn mà đã bỏ thuyền, há mình chẳng chìm trong nơi khổ hải? Hết thảy chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng khỏi pháp tính tam muội. Dầu khi mặc áo, ăn cơm, đàm thuyết, đối đãi, lục căn thường hành, nhậm vận thi vi, thật những là pháp tính diệu dụng. Chẳng biết phản bảng hoàn nguyên, vậy bèn tùy danh chấp tướng, tình mê vọng khởi, tạo chủng chủng nghiệp. Dầu hay biết được, nhất niệm hồi quang, liễu phàm tâm chứng được thánh tâm, chuyển thế pháp đều nên Phật pháp”.
Tư tưởng thiền cơ bản của Minh Châu Hương Hải như thế đã dựa trên tư tưởng “Chuyển thể pháp đều nên Phật pháp”. Thế đã rõ, Phật pháp không nằm ngoài thế pháp. Phật pháp chính là sự sống xảy ra bây giờ và ở đây, như “mặc áo, ăn cơm, đối đãi lục căn thường hành, nhậm vận thi vi, thật những là pháp tính diệu dụng”. Không có sự cách biệt. Chỉ có vấn đề là có biết “nhất niệm hồi quang” để cho sự sống ấy là sự sống mang tính Phật, mang tính giác ngộ giải thoát, chứ không còn mang tính chúng sinh khổ đau phiền não nữa hay không. Tư tưởng lấy cuộc đời, lấy sự sống trần thế làm đối tượng tu hành, từ thời Tuệ Năng (638-713) trở đi đã trở thành tư tưởng chủ đạo với bài thơ nổi tiếng của ông :
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích bồ đề
Do như tầm thố giác .
Và đến thời Trần Nhân Tông của nước ta, thì vị anh hùng dân tộc này đã không ngần ngại nêu thẳng quan điểm của mình về thiền là cư trần lạc đạo (sống đời mà vui đạo). Mà sống đời vui đạo này, ở nước ta vào thời ông, đúng như mấy chục năm trước Trần Thái Tông đã nói:”Đạo giáo của đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời”. Và chủ trương này đến lúc Minh Châu Hương Hải viết Sự lý dung thông vẫn còn hoàn toàn mang tính tạm thời của nó. Cho nên cũng chính trong phần phân tích về lý thuyết đời sống nhà tu của Sự lý dung thông, Minh Châu Hương Hải đã đề cập tới vai trò của Nho và Lão giáo trong quan hệ với Phật giáo, dành cho chúng những vị trí xứng đáng trong đời sống của những người thực hành Phật giáo thời ông. Truyền thống coi Nho và Lão không đối lập với Phật giáo, mà còn nhấn mạnh đến chúng như 1 bộ phận và phương tiện để truyền bá Phật giáo, đến lúc này vẫn được tiếp nối và kế thừa.
Và sau này ta vẫn còn thấy ở những con người như Ngô Thời Nhiệm và Nguyễn Du. Ngô Thời Nhiệm là 1 Thượng thư bộ Binh của triều Tây sơn, đồng thời cũng là 1 tiến sĩ đại khoa bảng, nhưng vẫn xác nhận công khai mình là Hải Lượng đại thiền sư trong Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh. Còn Nguyễn Du xuất thân từ 1 nhà quý tộc, trải qua bao thăng trầm của sự thế, vẫn tuyên bố “thử tâm thường định bất ly thiền”(lòng này thiền định không rời thiền), trong 1 bài thơ làm tại Lạng Sơn, trên đường đi sứ sang Trung quốc. Những người Phật tử Việt Nam đã sống đời sống đạo của mình trong 1 tình huống như thế. Trên vai họ đã gánh vác nhiều trọng trách đối với đất nước và đã có những đóng góp to lớn cho cuộc đời để làm vơi bớt đi ít nhiều khổ đau mà cuộc đời vốn dĩ thường mắc phải .
Lẽ sống người Phật tử là vậy, thế thì thực tiễn cuộc sống của họ thế nào. Minh Châu Hương Hải đã viết :
Ấy lời khuyên dặn người thiền tử,
Lý hiểu tường, sự giữ tiệm tu,
Hằng rèn giới hạnh công phu,
Lên đường tinh tấn nhẫn phù yên tâm .
Đời sống thực tiễn tu hành của họ phải gồm có giới hạnh công phu, nhưng giới hạnh công phu là gì? Minh Châu Hương Hải viết tiếp :
Dốc làm chí cả trượng phu,
Đạo nên trung hiếu, ân thù vẹn hai
Một lần nữa, quan điểm cho rằng đời sống thực tiễn Phật giáo phải là 1 đời sống trung hiếu của đấng trượng phu như vừa nêu, ta đã thấy xuất hiện trong Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông :
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
Nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm,
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Đi đỗ mới trượng phu trung hiêú .
Vậy, với Sự lý dung thông, lý luận về đời sống tu hành của người Phật tử Việt Nam lại được xác nhận như nó đã xuất hiện trong lịch sử, đấy là 1 lối sống trượng phu trung hiếu. Khi viết Sự lý dung thông, Minh Châu Hương Hải hiểu rất rõ đời sống trung hiếu của những Phật tử Việt Nam thời ông, mà cụ thể nhất trước mắt ông là Ứng quận công tiến sĩ Đặng Đình Tướng, người đã lui tới thăm viếng Nguyệt Đường nhiều lần, và cũng đã từng nhờ Minh Châu Hương Hải tiến hành cúng quảy cho nhà mình. Cho nên khi viết Sự lý dung thông, Minh Châu Hương Hải không phải chỉ khuyên răn, mà còn ghi lại 1 thực tế của đời sống Phật giáo Việt Nam thời kỳ này, 1 thời kỳ mà cuộc sống đạo và đời quyện chặt vào nhau, đúng như yêu cầu Cư trần lạc đạo mà Trần Nhân Tông đã đề ra. Nói thế, để thấy rằng Minh Châu Hương Hải đã viết Sự lý dung thông vào những năm sống ở Nguyệt Đường, tức vào những năm 1700 .
SỰ LÝ DUNG THÔNG 1
Bể làu làu trời thanh nguyệt sáng 2
Hội muôn thiêng một áng đoàn viên 3
Tỏ lòng Đông độ Tây thiên 4
Gần xa đầm ấm hương thiền nức xông
Hé vừng hồng hoa khai bát nhã 5
Trồng bồ đề kết quả tự nhiên 6
Đường lên hiền thánh Phật tiên
Gồm no phúc tuệ vẹn tuyền chẳng sai 7
Diễn pháp tài thông hay sự lý 8
Cúng mười phương một vị chẳng dư 9
Thật quyền thể dụng như như 10
Tùy duyên đôi chữ lòng từ độ nhân
Xét nguồn cơn Phật tri chánh kiến 11
Ấn tâm truyền mật hiển đinh ninh
Hằng gìn pháp nhẫn vô sinh 12
Chỉ quán vằng vặc phân minh rạch ròi 13
Gương hằng soi trong nơi thủ niệm 14
Tuốt bá trần chẳng điểm thị phi 15
Tẩy không non mạn thành nghi 16
Một lòng bình đẳng trí bi độ người 17
Dù chê cười hương đồ dao cắt 18
Lẽ đành rành thể ắt chiêm bao
Lông rùa sừng thỏ hề sao 19
Nhẫn như không nhẫn nhục nào nhục ai
Hạc xông ngựa ruổi đường dài
Long phi bằng cử nào ai sánh cùng 20
Dầu anh hùng tài năng tế thế
Trong huyễn trường luống kể chiêm bao 21
Tứ sinh cửu hữu ra vào 22
Nhân thiên đạo nhãn lòng nào dửng dưng 23
Phải phiền chưng đức người thượng sĩ 24
Phương tiện dùng lợi kỷ lợi tha
Trong nơi danh giá có ba 25
Nho hay giúp nước sửa nhà trị dân
Đạo thì dưỡng khí an thần 26
Thuốc trừ tà bệnh chuyên cần luyện đan
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ 27
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương 28
Nho dùng tam cương ngũ thường 29
Đạo gìn ngũ khí giữ giàng ba nguyên 30
Thích giáo nhân tam qui ngũ giới 31
Thể một đường xe phải dùng ba 32
Luận chưng thánh tổ Nho gia
Trong đời trị thế người là nhân sư 33
Sao bằng Đâu suất vị cư 34
Lão quân tiên chủ đại từ dược phương 35
Phật là vạn pháp trung vương 36
Làm thầy ba cõi đạo trường nhân thiên 37
Những thánh hiền nguồn nhân bể quả
Xưa tu hành trí đã rộng cao
Trong nơi ba cõi ra vào
Mười phương tri thức ai nào khá nghi
Nguyệt in thanh hải tịnh trì 38
Thềm lan bóng trúc hề chi vén ngằn
Phên dày nước chảy khôn ngăn
Mây ruổi ngoài trần há động non cao
Sự nài bao hang sâu tiếng dội
Đèn hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Đường lên diệu lộ cao thăng 39
Giải hành đôi chữ há rằng dám sai 40
Tạng Như Lai làu làu thanh tịnh 41
Năm hương lòng hằng kính hằng tin 42
Đòi phen giải thoát tự nhiên 43
Dùng chân như trí gương thiền sáng thâu 44
Lộc dương theo dấu hay đâu 45
Nê ngưu vào bể rộng sâu khôn tìm 46
Bao nhiêu chim bay về lạc tổ 47
Mây che ngoài ngỡ ổ hang xưa 48
Đêm chẳng ngừa nhọc treo gương đá 49
Ban sáng ngày trời đã phân minh 50
Uyên ương vẽ dáng xem hình 51
Cứ đâu lưới rách cho mình mới thông 52
Hãy nhìn sáu tổ năm tôn 53
Thiền hà muôn phái một dòng Tào Khê 54
Bể từ rạt sạch nguồn mê 55
Máy thiêng mở khép đề huề độ sinh 56
Chuyển vô minh bối trần hiệp giác 57
Vui về bề diệu dược liên bang 58
Dầu ai hiểu biết tâm vương 59
Chứng vô thượng đạo lên đường Như Lai 60
Ra nhân đức, nhuận ân oai
Lầu lầu viên tịnh trong ngoài sáng thanh 61
Há còn chấp tướng ngại danh 62
Tuỳ cơ thuận nghịch tung hoành cũng ưa 63
Tám gió đưa đèn lòng phất phất 64
Muôn niệm dừng vằng vặc chẳng sai 65
Tuy rằng nam có Thiên Thai 66
Bắc có Ngũ Đài một pháp Năng nhân 67
Dốc bốn ân đức nhờ tam bảo 68
Tiếp tứ hoằng một đạo nguyện xưa 69
Cam lồ nước sái làm mưa
Muôn cây đượm nhuận ân nhờ xuân thiên 70
Trường hà tô lạc luyện nên 71
Quần sinh hoá dục, công đền muôn công
Mặc dầu vượt tổ siêu tông
Vén cành điểm lá rồi lòng mới yên 72
Mặc dầu tĩnh tọa lâm tuyền
Thiền na chỉn quyết tinh chuyên đêm ngày 73
Mặc dầu vân thủy nước mây
Đầu đà thượng hạnh làm thầy độ sinh 74
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi tri túc thì nên 75
Năm mươi lăm phẩm dưới trên 76
Luyện tam muội hoả chí bền kim cương 77
Nhân thiên mấy đấng phong quang 78
Tam hiền thập thánh một đường cao siêu 79
Cày mây cuốc nguyệt tuy nhiều 80
Chứng vô thượng sỹ danh tiêu mới nồng 81
Hai mươi lăm cửa viên thông 82
Mặc dầu tri thức tâm không ngại gì 83
Ưu đàm hoa nở phải thì 84
Nhân duyên đại sự há vì một ai 85
Kẹp non nhảy bể mới tài 86
Dùng ba la mật chứng ngoài tam không 87
Biết nơi thành tựu vun trồng
Ngỏ lòng viên giác, tính đồng hoa nghiêm 88
Cao nhân chi có nỡ hiềm 89
Thanh trần hủy dự càng thêm đức dày 90
Nửa câu nửa kệ bèn hay 91
Biết lòng lọ phải nhọc bày danh ngôn 92
Máy càn khôn một bầu thế giới 93
Vốn chưa từng thành hoại hư không 94
Rừng Nho bể Thích dung thông
Linh đài vằng vặc, vừng hồng sáng thanh 95
Bồ đề quả mãn viên thành
Ẩm quang còn ngợi thái lành muôn duyên 96
Xưa sau thiên thánh vạn hiền
Chứng nên thành Phật thành tiên một lòng
Muôn điều ngàn mối rũ xong 97
Hằng sa tính đức há phòng niệm sinh
Tam tạng mười hai bộ kinh 98
Tùng tâm lưu xuất, tượng hình thật không 99
Nhân đà lịch kiếp dụng công 100
Tu hành như ảo mộng trung hồi trình
Trong mười tám cõi viên minh 101
Căn trần thanh tịnh thái bình tự nhiên
Ấy lời khuyên dặn người thiền tử 102
Lý hiểu tường, sự giữ tiệm tu 103
Hằng rèn giới hạnh công phu
Lên đường tinh tấn nhẫn phù yên tâm 104
Ngày càng chuyển nhập chuyển thâm 105
Nguồn nhân bể quả mựa lầm tóc tơ 106
Máy thiền cơ trong nơi định tuệ 107
Phải tham tường mới kể chân tu
Dốc làm chí cả trượng phu
Đạo nên trung hiếu ân thù vẹn hai 108
Trong khi khó nhọc mựa nài
Sức dùng hà đảm Như Lai viên thành 109
Sạch lời đối đãi đau tranh
Bẻ rào nhân ngã, tẩy thành mạn nghi 110
Thanh trần gác để thị phi 111
Tịnh thân khẩu ý thanh qui làu làu 112
Nết hằng trau ngôn từ đức hạnh
Trí phen đòi lượng thánh hiền xưa 113
Bữa dùng đạm bạc muối dưa
Bả bô thường tịnh, sớm trưa phải thì 114
Cơ duyên chiết tiết ân uy 115
Trong hằng thanh tịnh, ngoài thì đoan trang
Trong nơi giềng mối sửa sang
Răn khuyên hậu học mở đường tiến tu
Qui mô Phật pháp khuông phù 116
Để làm minh cảnh muôn thu dõi truyền 117
1. Sự : thực tiễn; Lý: lý thuyết, nguyên tắc bao gồm cả lý thuyết và thực hành.
2. Làu làu: trong suốt, do dịch chữ Hán là trạm tịch; Bể làu làu nhằm chỉ cho cảnh giới giác ngộ .
3. Muôn thiêng: các vị thánh đã chứng đạo .
4. Rõ hết lòng của Phật và Tổ. Tây thiên là nơi Phật Thích Ca ra đời và Đông độ là nơi khai sinh dòng thiền của các Tổ như Tuệ Khả, Huệ Năng…
5. Ý chỉ quan niệm trí tuệ như mặt trời. Khi đã có trí tuệ mặt trời chiếu soi thì mọi vật đều được rõ. Câu này viết theo lối đảo trang .
6. Câu này lấy ý từ bài thơ truyền pháp của Đạt Ma : Ta vốn đến đất này/ Truyền pháp cứu người mê/ Một hoa nở năm cánh/ Kết quả tự nhiên nên/ Ý chỉ thiền tông phát triển thành công .
7. Gồm no : gồm đủ.
8. Đem giáo pháp bày tỏ cho mọi người biết để rõ lý thuyết và thực hành .
9. Câu này lấy ý trong kinh A Hàm :”Như nước trong biển chỉ có một vị là vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có một vị là vị giải thoát”.
10. (câu 11-12) Khi đã giải thoát rồi, người ta có thể vận dụng chân lý tùy theo trường hợp một cách đúng đắn thể hiện lòng từ bi cứu giúp mọi người .
11. (câu 13-14) Xét về nguồn gốc thì hiểu biết của Đức Phật có 2 mặt : 1.Hiển: giáo lý được giảng giải một cách rõ ràng ai cũng hiểu cũng thấy. 2. Mật: những phương pháp bí truyền. Cả hai hiển và mật , đều đem truyền cho đệ tử .
12. Gìn : nguyên chữ đọc là thìn, là gìn giữ, một từ xưa. Pháp nhẫn vô sinh : chữ Phạn là Anutpattikadharmaksanti, sự tùy thuận theo chân lý, theo sự thực một cách tự nhiên .
13. Chỉ : dịch từ chữ Phạn Samatha, ngừng lại, một phương pháp tu thiền nhằm tập trung ý thức một chỗ, không cho tản mạn; Quán (P.) Vipasyana: là xem xét, dùng ý thức tập trung đó xem xét sự vật để nhận chân được bản chất của nó. Đây là 2 giai đoạn của một quá trình hành thiền .
14. Thủ niệm: giữ lấy ý thức không cho tản mạn, làm cho nó trong sáng để có thể xem xét sự vật thấu suốt như sự phản chiếu của gương .
15. Sạch hết trần lao, chẳng còn bám víu, chẳng kể thị phi .
16. Rửa sạch hết núi kiêu căng, thành trì ngờ vực .
17. Đem lòng bình đẳng, dùng từ bi trí tuệ cứu giúp mọi người .
18. Chỉ tích vị tiên Sàn Đề bị vua Ca Ly chửi mắng và cắt hết tay chân mà vẫn nhẫn nhục chịu đựng
19. Sự sinh diệt của các pháp không thật giống như lông rùa sừng thỏ, vì bản chất nó là chân như .
20. (câu 25 và 26) Khi đã đạt được vô sinh pháp nhẫn, con người có nhiều khả năng như hạc bay vút lên cao, ngựa chạy đường dài, rồng lượn trên trời, đại bàng cất cánh vươn lên …
21. Huyễn trường: nơi ảo mộng chỉ cho cuộc đời này .
22. Tứ sinh: bốn loài sinh vật do bào thai, do trứng, do hơi ẩm, do tự phân hoá sinh ra; Cửu hữu : chín cõi, tức cõi dục giới, bốn cõi của sắc giới là thiền thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư và bốn cõi của vô sắc giới, tức không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ .
23. Khi đã giác ngộ rồi, làm con mắt đạo cho trời và người thì lòng nào lại nỡ dửng dưng .
24. Nên phải phiền đến lòng độ lượng của vị xuất trần, dùng phương tiện để giúp người, giúp mình .
25. Danh giáo: những đạo chính thống, đúng tên của nó .
26. Dưỡng khí an thần: nuôi lấy khí huyết trong con người và ổn định tinh thần .
27. Tam đồ khổ : ba đường đau khổ : đường máu, đường lửa và đường gươm đao .
28. Cửu huyền : chín đời: cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu, chắt, chít. Thất tổ: bẩy đời: cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ .
29. Tam cương ngũ thường: tam cương: ba giềng mối lớn của xã hội là quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ. Ngũ thường: năm điều phải luôn luôn giữ tức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín .
30. Ngũ khí : Nóng, lạnh, gió, khô, ướt. Đó là theo Hoàng đế tố vấn nội kinh. Còn theo thiên Hồng phạm trong kinh Thư là mưa, nắng, lạnh, gió, ấm.
Ba nguyên: Đạo gia cho rằng trời, đất và nước là ba điểm đầu .
31. Phật giáo dạy người ba quy y và năm điều răn. Ba quy y là quy y Phật, quy y pháp và quy y tăng. Năm điều răn là : không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu .
32. Tuy cùng chạy trên một đường nhưng phải dùng ba loại xe khác nhau tức Nho, Phật và Lão .
33. Nhân sư: thầy loài người .
34. Đâu suất: phiên âm chữ Phạn Tusita, tên một cõi trời trong Dục giới, tương truyền nơi bồ tát Hộ Minh ngụ trước khi đầu thai làm Phật Thích Ca .
35. Vị chủ tiên Lão quân của Đạo giáo, là kẻ có lòng thương rộng lớn, tìm thuốc cứu người .
36. Vạn pháp trung vương: vua trong muôn sự muôn vật, tức vị vua của mọi vua .
37. Ba cõi: thế giới chúng sinh theo Phật giáo có ba cõi là dục giới, sắc giới và vô sắc giới, tức gồm cả trời và người .
38. Trăng soi bóng vào biển trong hồ sạch .
39. Diệu lộ: nẻo mầu nhiệm cao xa .
40. Giải hành : sự hiểu biết và sự thực hành .
41. Tạng Như Lai: dịch chữ Tathàgatagarbha, chỉ một quan niệm Phật giáo cho rằng mọi chúng sinh đều có tính giác ngộ tức nằm trong bào thai của Như Lai .
42. Năm hương lòng: một người tu hành thì thể hiện được giới, định, tuệ, giải thoát và tri kiến giải thoát, tức năm thứ “hương lòng” để dâng lên đức Phật .
43. Đòi phen: nhiều lần .
44. Chân như trí: trí tuệ có được sau khi giác ngộ, đem trí tuệ ấy mà nhận thức mọi vật thì đạt đến những tri giác đúng đắn như gương sáng có thể phản ảnh được hình tượng của mọi sự mọi vật .
45. Những ảnh dụ trong công án thiền .
46. -nt-
47. Hai câu này dịch từ Thiền tôn cổ tụng liên châu.
48. Hai câu này dịch từ Thiền tôn tụng cổ liên châu.
49. Những ảnh dụ trong các công án thiền .
50. -nt-
51. -nt-
52. -nt-
53. Sáu tổ : sáu vị gầy dựng nên thiền tôn Trung quốc là Bồ Đề Đạt Ma, Tuệ Khả, Tăng xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng; Năm tôn : năm tôn phái thiền phát triển sau Huệ Năng là Qui Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế, Vân Môn và Pháp Nhãn .
54. Sau Huệ Năng phát triển thành nhiều chi phái mà sau này các vị tổ thiền thường tự nhận là xuất phát từ Huệ Năng .
55. Biển từ bi làm trong sạch và phai lạt các sông mê.
56. Khi đã trở về biển từ bi đó thì có thể tùy phương tiện ra cứu giúp mọi người.
57. Chuyển từ chỗ chưa giác ngộ đến chỗ giác ngộ mình phải xoay lưng lại với những bụi dơ của phiền não để hoà mình theo con đường giác ngộ .
58. Khi chuyển được vô minh, mình vui với phương pháp niệm Phật, coi nó là phương thuốc kỳ diệu .
59. Tâm vương: chỉ cho thức a lại da, nơi chứa nhóm mọi hạt giống tâm và vật của vũ trụ.
60. Ý cả hai câu nói khi đã hiểu biết được cái thức ấy, tức đạt được sự giác ngộ tối cao .
61. Lầu lầu viên tịnh: trong sạch tròn đầy
62. Chấp tướng: câu nệ vào hình thức để xét đoán sự vật ; Ngại danh: bị vướng mắc bởi ngôn từ.
63. Tùy theo trường hợp thuận lợi hay không thuận lợi để thực hiện ý nguyện độ sinh của mình .
64. Bát phong: tám ngọn gió có thể lay động lòng người tức: lợi lộc, suy bại, kích báng, ca tụng, khen, chê, khổ, vui, như Đại trí độ luận chép.
65. Muôn niệm: những hoạt động của tâm thức .
66. Thiên Thai: tên một ngọn núi ở Thai châu miền Nam Trung quốc. Trí Khải (531-597) đã xiển dương và giảng dạy kinh Pháp Hoa, lập thành một tôn phái nổi tiếng gọi là tôn Thiên thai.
67. Ngũ Đài: tên một ngọn núi ở huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, miền Bắc Trung quốc, nơi Trừng Quán (760-820) đã phát triển phái Hoa Nghiêm. Ý 2 câu này nói rằng dù lập trường hai phái có khác nhau nhưng đều nói đến giáo pháp của Phật Thích Ca; Năng nhân: là một từ Trung quốc dùng để dịch chữ Thích Ca.
68. Trả bốn ân, tức ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân quốc gia, ân thí chủ bằng cách nhờ công đức mình thực hiện được đối với Phật, Pháp, Tăng .
69. Tứ Hoằng: bốn lời nguyện lớn, tức “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ v.v…” mà các vị bồ tát thực hiện đối với mình và người .
70. Muôn cây lớn lên nhờ ân mưa móc của trời mùa xuân, như người đau khổ được rưới nước cam lồ.
71. Trường hà tô lạc: sông sữa dài. Ý chỉ có khả năng nuôi dưỡng chúng sinh .
72. Đã thanh trừ và làm sạch mọi xấu xa.
73. Thiền na: chữ Phạn dhyàna, dịch là thiền định, một hình thức tư duy tập trung; chỉn : chỉ, chắc chắn
74. Đầu đà: phiên chữ Phạn dùta, nghĩa là rũ bỏ, người tu hạnh này nhằm rũ bỏ tất cả mọi tham đắm phiền não chi phối như xin ăn và chỉ ăn một ngày một bữa nơi mồ mả, gốc cây, thường ngồi, không nằm, mặc áo do giẻ rách may lại…
75. Lòng đã không còn tham đắm, trở nên biết đủ .
76. Năm mươi lăm phẩm : những giai đoạn tu hành của một người Phật giáo mười bậc của giai đoạn niềm tin (thập tín) , mười bậc của giai đoạn thực hành (thập hạnh), mười bậc của giai đoạn củng cố niềm tin (thập trụ), mười bậc của giai đoạn hướng về kẻ khác (thập hồi hướng), mười bậc của giai đoạn đạt đích (thập địa) cộng với hai bậc Đẳng giác và Diệu giác. Vậy trong quá trình tiến lên giác ngộ hoàn toàn thông thường có cả thảy năm mươi hai bậc. Nhưng tùy quan điểm của từng trường phái, người ta thường chia hai bậc cuối thành ba, bốn, năm hay sáu bậc. Quan điểm của Hương Hải đây chia Đẳng giác, Diệu giác làm năm bậc nên có năm mươi lăm bậc .
77. Tam muội hoả: lửa tam muội. Tam muội do phiên âm chữ Phạn Samàdhi, có nghĩa là tập trung tư tưởng. Một quan niệm cho rằng khi tập trung tư tưởng người ta có thể biến đổi nó thành một thứ lửa có thể đốt cả phiền não.
78. Tam hiền thập thánh: những người ở vào ba giai đoạn củng cố, thực hành và hướng về kẻ khác thì gọi ba hiền, còn những người ở vào mười bậc của giai đoạn đạt đích thì gọi là thập thánh. Ý cả hai câu nói những vị sáng suốt thảnh thơi ở cõi trời, cõi người thì có thể thẳng tiến đến địa vị ba hiền mười thánh .
79. -nt-
80. Sống trong cảnh núi rừng hoang dã tuy nhiều nhưng quan trọng phải đạt được giác ngộ mới tốt.
81. -nt-
82. Hai mươi lăm cửa để hiểu biết tròn đầy về sự thực. Kinh Lăng Nghiêm nói gồm sự hiểu biết về 6 trần, 6 đối tượng, 6 giác quan, 6 ý thức và 7 đại (đất, nước, gió, lửa, không gian, thời gian và ý thức) cộng lại thành 25 viên thông .
83. Khi đã hiểu biết sự thực thì không còn ngại chi nữa .
84. Ưu đàm hoa : tên một loại hoa ở Ấn Độ, tương truyền 3 ngàn năm mới nở một lần, tiếng Phạn dịch Udumbara.
85. Nhân duyên đại sự: bốn chữ này lấy ý từ câu:”Ta vì một đại sự nhân duyên mà ra đời là mở bày cho chúng sinh con đường đi vào tri kiến của chư Phật” của kinh Pháp Hoa. Nên đại sự nhân duyên ở đây ý chỉ ra hoá độ chúng sinh .
86. Kẹp non nhảy biển : chữ lấy từ câu:”Kẹp Thái sơn mà nhảy qua biển Bắc” của Mạnh tử để chỉ những hành động khó làm.
87. Ba la mật: phiên âm chữ Phạn Pàramità, có nghĩa là vượt bến tới bờ bên kia. Đây chỉ cho sáu loại hành động tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ để đạt tới ba không hay ba giải thoát là không, vô tướng và vô nguyện .
88. Viên giác: nguyên là tên gọi tắt của một quyển kinh mang tên Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh. Có nội dung nói lên tính tuyệt đối của chân lý, không thể dùng ngôn từ để diễn tả trọn vẹn được nên nói lòng viên giác là chân lý chỉ có thể nhập mà không thể diễn tả trọn vẹn và bấy giờ người ta ở vào thế giới hoa nghiêm. Vì vậy còn gọi tính đồng hoa nghiêm; Hoa nghiêm : tên 1 bộ kinh gọi đủ là Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh. Nêu lên quan điểm một là tất cả, tất cả là một. Do đó một người khi đã giác ngộ thì thể nhập bao trùm cả thế giới .
89. Cao nhân: người đã đạt đạo.
90. Thanh trần hủy dự : tiếng tăm khen chê.
91. Ý cả hai câu nói khi đã giác ngộ thì nghe nửa câu kinh, nửa câukệ cũng đủ, không cần phải dài dòng văn tự nói năng (danh ngôn).
92. -nt-
93. Thế giới và vũ trụ thâu vào một cái bầu. Chỉ thích Thi Tồn đời Lỗ có cái bầu chứa đủ cả trời đất vũ trụ. Ý nói qui luật vũ trụ chưa từng thay đổi .
94. -nt-
95. Linh đài: đài thiêng, chỉ cho lòng sáng suốt giác ngộ của con người. Ý chỉ khi lòng người đã sáng suốt như mặt trời thì sự giác ngộ hoàn toàn viên mãn .
96. Ẩm quang: phiên âm chữ Phạn Kasyapa (Ca Diếp) tên một vị đại đệ tử của đức Phật. Đây chỉ tích Ca Diếp hiểu được ý nghĩa của việc Phật cầm cành hoa đưa lên trong chúng hội Linh Sơn. Từ đó thiền tôn bắt đầu và sau này cũng chính ý nghĩa đó chi phối sự giác ngộ của những người đi sau .
97. Khi những đầu giây mối nhợ của phiền não đã rũ sạch thì những đức tính giác ngộ phát triển thì cần gì phải lo các vọng niệm phát sinh.
98. Tam tạng: ba tạng, chỉ kinh điển Phật giáo gồm tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận, mười hai bộ kinh: mười hai loại hình kinh sách Phật giáo gồm: Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Thí dụ, Nhân duyên, Tự thuyết, Bản sinh, Bản sự, Vị tằng hữu, Phương quảng, Luận nghị, Ký biệt
99. Kinh điển Phật giáo hình thành là do sự giác ngộ được tâm là gì, chứ không phải nhằm phản ảnh những sự thật tầm thường .
100. Vì có nhân trong nhiều kiếp, nên việc tu hành giống như thức dậy trong một giấc mộng.
101. Mười tám cõi: mười tám lĩnh vực hoạt động của một chủ thể, gồm sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), sáu đối tượng của chúng (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp), và sáu nhận thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Khi mười tám lãnh vực hoạt động này đầy đủ sáng suốt, thì chủ thể (căn) và đối tượng (trần) đã thanh tịnh, thì người ta giải thoát .
102. Thiền tử: người thực hành thiền
103. Khi đã hiểu rõ lý thuyết, thực hành phải duy trì sự tiến hành đều đặn từng bước.
104. Nhẫn phù yên tâm: đến khi đã giác ngộ.
105. Chuyển nhập chuyển thâm: đi vào càng sâu.
106. Mựa: chớ, một từ xưa.
107. Cơ hội giác ngộ thiền nằm nơi thiền định và trí tuệ.
108. Ân thù: người làm ơn, kẻ gây oán.
109. Hà đảm: gánh vác.
110. Nhân ngã: người và ta, mạn nghi: kiêu căng và nghi ngờ. Ý nói phá vỡ hàng rào chia cách ta và người, xoá sạch bức thành kiêu căng và nghi ngờ .
111. Thanh trần: tiếng tăm, ý cả câu nói mọi tiếng tăm đều gác hết qua một bên, không để ý đến.
112. Giữ những ràng buộc về thân, miệng và ý cho mình được trong sạch .
113. Phen đòi : sánh với.
114. Bả bô : loại vải xấu.
115. Tùy theo cơ duyên bản thân hoàn cảnh từng người dùng ân uy để chiết phục hay tiếp đãi họ.
116. Ý cả câu nói giúp đỡ sự nghiệp phát triển Phật giáo.
117. Minh cảnh: gương sáng.
HẾT
Thảo luận về post