- Bài viết liên quan
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 1] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 3] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 4] – Gs. Lê Mạnh Thát
>>> MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP [Phần 5] – Gs. Lê Mạnh Thát
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI TOÀN TẬP
Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học
III NỘI DUNG THƠ VĂN
Sau khi đã xác định 54 bài thơ kệ và 14 đoạn ngữ lục ngữ là của, hoặc nghi là của các thiền sư Trung Quốc, còn lại như vậy 5 bài thơ chữ Hán và 4 tác phẩm bằng tiếng Việt là của Minh Châu Hương Hải. Căn cứ vào số lượng tác phẩm này, ta có thể rút ra một số nhận định sau về nội dung thơ văn ông .
1.Về quan hệ Nho Phật
Bản thân Minh Châu Hương Hải từ nhỏ đã học Nho, lớn lên đã đi thi đỗ và ra làm quan. Cho nên trong thơ văn, ông ta đã thấy xuất hiện quan điểm của ông về quan hệ giữa cái Nho giáo và cái học Phật giáo. Tất nhiên, ngay việc ông từ quan, xuất gia, trở thành một thiền sư đã chứng tỏ ông không đánh giá cao cái học Nho giáo, vì không đánh giá cao nên mới từ bỏ chúng cho một lý tưởng đẹp hơn, đó là lý tưởng Phật giáo. Điều này ông nói rất rõ trong tác phẩm thơ Sự lý dung thông :
Luận chưng thánh tổ Nho gia
Trong đời trị thế, người là nhân sư
Sao bằng đâu suất vị cư
Lão quân tiên chủ đại từ được phương
Phật là vạn pháp trung vương
Làm thầy ba cõi đạo trường nhân thiên
Quan điểm này phản ánh quan điểm trước sau như một của những người Phật giáo Việt Nam từ Mâu Tử (160-220), Khương Tăng Hội (?-280) Đạo Cao (370-450?) Lý Thánh Tông(1054-1072) Trần Thái Tông(1125-1258) Nguyễn Trung Ngạn (?-1370) v.v…cho đến những người sống sau Minh Châu Hương Hải như Ngô thời Nhiệm (1746-1803) Toàn Nhật (1750?-1832) v.v…việc coi Nho giáo không bằng Phật giáo và như một phương tiện bộ phận để truyền bá Phật giáo phải nói là một quan điểm thống soái xuyên suốt lịch sử tồn tại của Nho giáo tại Việt Nam.
Điều này giải thích cho ta rất nhiều vì sao một Phật tử thuần thành và thực tế là một vị tổ của thiền phái Thảo Đường như Lý Thánh Tông lại lập văn miếu để thờ Khổng Tử, và Trần Thái Tông đã cho mở đều đặn các khoa thi Nho giáo, đặt nền tảng cho hệ thống thi cử Việt Nam sau này. Và điều này cũng giải thích tại sao các nhà Nho Việt Nam, từ một ông thầy đồ ở làng cho đến một vị trạng nguyên tại triều đình, hầu hết đều là Phật tử. Nhận thức được tình hình đó, ta mới thấy việc xác định vai trò của Nho và Lão giáo tại Việt Nam đều cùng một đường, nghĩa là phục vụ cho con đường Phật giáo phát triển và tồn tại, đúng như Minh Châu Hương Hải đã viết trong Sự lý dung thông :
Trong nơi danh giáo có ba
Nho hay giúp nước sửa nhà trị dân
Đạo thì dưỡng khí an thần
Thuốc trừ tà bệnh chuyên cần luyện đan
Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương
Nho dùng tam cương ngũ thường
Đạo gìn ngũ khí, giữ giàng ba nguyên
Thích giáo nhân tam quy ngũ giới
Thể một đường, xe phải dùng ba
Không những thơ viết bằng chữ Việt, thơ chữ hán của Hương Hải cũng biểu lộ những nhận định như thế, qua hai bài thơ số 14 và 15 theo cách đánh số của chúng tôi trong Hương Hải thiền sư ngữ lục và thường được những người viết về Minh Châu Hương Hải trích dẫn nhiều lần. Bài thơ 14 đọc :
Thành thị du lai ngụ tự chiền
Tuỳ cơ ứng hoá mỗi thời nhiên
Song chiêu nguyệt đáo sàng thiền mật
Tùng tiếu phong suy tích khách miên
Sắc ánh lâu đài minh sắc diệu
Thanh truyền chung cỗ diễn thanh huyền
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
Nhiệm vận hà tằng lý hữu thiên
(Phố thành chơi dạo, ở chùa chiền
Ứng biến tuỳ cơ mỗi tự nhiên
Cửa đón trăng vào thiền chõng ngọt
Thông reo gió thổi khách giấc yên
Lâu đài sắc sáng càng thêm sáng
Chuông trống tiếng đưa tiếng mỗi truyền
Ba giáo xưa nay cùng một thể
Theo thời sao lẽ có nghiêng bên)
Bài thơ thứ 15 :
Thượng sĩ du lai bát nhã lâm
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
Liêm khê, Trình thị minh cao thức
Tô tử, Hàn văn khế diệu âm
Vạn tường sum la cao dị hiển
Nhất biều tạo hoá mật nan tầm
Nho nguyên đảng đảng đăng di khoát
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm
(Bát nhã rừng thường thượng sĩ thăm
Ở đời chẳng nhuốm, rõ thiền tâm
Liêm khê, Trình thị thông cao kiến
Tô tử, Hàn văn rõ diệu âm
Muôn trạng bao la xa dễ hiểu
Một bầu tạo hoá kín khôn tìm
Nguồn Nho bát ngát lên thêm rộng
Biển Phật mênh mông xuống sâu lần)
Rõ ràng quan hệ Phật Nho một lần nữa được Minh Châu Hương Hải xác định không chỉ với tư cách một thiền sư, mà còn với tư cách một người thành đạt trong học giới nhà Nho, quy định hẳn mối quan hệ này, bắt buộc Nho giáo phục vụ cho lợi ích của Phật giáo. Đây đúng là quan điểm mà Trần Thái Tông đã phát biểu: “Như thế đủ biết giáo lý của Đức Phật ta, nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời”(Tắc tri ngã Phật tri giáo hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế dả). Phải thấy điều này, ta mới hiểu tại sao có những nhà Nho thành đạt trên quan trường, tích cực đối với việc mở mang chính giáo nhưng vẫn có những bài thơ ca ngợi Phật giáo. Trương Hán Siêu cuối cùng đã có quan hệ tốt với nhà chùa, đến nỗi Ngô Sĩ Liên phải tỏ ra bực tức. Lê Thánh Tông, ban Từ thư ngũ kinh cho phủ huyện học, nhưng vẫn coi chùa Trấn Quốc là đứng ở giữa trung tâm của trời đất, làm bền vững kinh đô của đất nước mình:
Trung lập càn khôn vững đế đô
Mảng danh Trấn Quốc ở Tây hồ
Rồi các tiến sĩ, cử nhân nhà Mạc đua nhau lập chùa, đúc chuông, mà vết tích thì còn lại rất nhiều qua các văn bia hiện đã tìm thấy. Đến đời Lê Trung Hưng và Nguyễn thì các danh Nho, tiến sĩ như Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ, Phạm Phú Thứ v.v… đều có thơ văn đề cao Phật giáo và bản thân gia đình cũng có người xuất gia (như trường hợp con gái của Nguyễn Công Trứ) hoặc đóng góp tiền của để in kinh, dựng chùa (như trường hợp của Phạm Phú Lâm con của Phạm Phú Thứ). Và đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi tổ quốc lâm vào đại nạn mất nước, thì chính những nhà Nho đại khoa bảng như Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp đã lên tiếng “phế Nho hưng Phật” để cứu dân cứu nước. Nói cụ thể hơn người Việt Nam học Nho, nhưng biết mình học Nho để làm gì và biết mình là ai. Cho nên dù xuất thân từ cửa Khổng sân trình, họ vẫn sẵn sàng kêu gọi bỏ Nho theo Phật để phục vụ cho dân cho nước mình.
Quan hệ Phật Nho dưới nhãn quan của Minh Châu Hương Hải như thế không nằm ngoài quỹ đạo nhận thức của người Phật giáo Việt Nam. Người Phật giáo Việt Nam rất cởi mở, và nền giáo dục của họ không phải đợi đến khi Lý Thánh Tông lập Văn miếu và mở ra ngôi trường đại học đầu tiên cho đất nước vào năm 1070, mới bao gồm cái học của nhà Nho, mà ngay từ những năm tháng đầu của thời kỳ đấu tranh khốc liệt và bi hùng với kẻ thù phương Bắc, họ đã thành công khi tiếp nhận nền học thuật nhà nho này để phục vụ cho đất nước họ, mà những sản phẩm đầu tiên thể hiện qua những con người như Sĩ Nhiếp (137-226), Mâu Tử, Khương Tăng Hội và Đạo Thanh (220-300?) [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, Tu thư Vạn Hạnh, 1982, tr.262-308, Khương Tăng Hội toàn tập, tập I, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1975, tr.35-48].
Nói khác đi, quan điểm của Minh Châu Hương Hải về quan hệ Nho Phật không phải là những quan điểm mới lạ vào thời ông. Nó đã xuất hiện và được thử thách qua lịch sử. Cho nên dù có nơi có lúc có những người Phật giáo đòi loại bỏ cái học nhà Nho như trường hợp hoàng đế Lý Miễu (400-460), nhưng hầu hết những người Phật giáo vẫn ôn tồn và bình tĩnh tiếp thu có chọn lọc những nền học thuật ấy nhằm phục vụ không những cho học thuyết của mình mà còn cho đất nước nữa .
2. Về quan điểm thiền Phật giáo
Bản thân Minh Châu Hương Hải là một vị thiền sư, và với pháp danh Minh Châu, ông thuộc về Thiền phái Lâm Tế dòng Trí Bảng Đột Không, với bài kệ truyền pháp như ta đã thấy ở trên. Tuy thế, qua bảng liệt kê các tác phẩm kể trước, ta thấy ông tỏ ra quan tâm và quán xuyến các kinh điển của các trường phái khác nhau trong Phật giáo. Không những ông dịch kinh Kim Cang, mà còn dịch cả kinh Pháp Hoa, kinh Di Đà, kinh Vô lượng thọ, kinh Địa tạng v.v…Ngoài ra, còn có Giải Sa di giới luật, lại viết Nghi thức cúng Phật Dược sư, cúng Cửu phẩm v.v…điều này chứng tỏ một lần nữa Minh Châu Hương Hải đã nằm trong dòng chủ lưu của thiền Phật giáo Việt Nam, không bị ảnh hưởng nhiều của các dòng thiền Trung quốc. Nói khác đi, một trong những nét khác biệt giữa thiền Trung Quốc và thiền Việt Nam ngay từ đầu cho đến những phát hiện về sau là không loại bỏ việc học và tụng niệm các kinh điển Phật giáo, trong khi vẫn tự nhận mình là tu học theo thiền.
Trong lịch sử thiền tông Trung Quốc ta hầu như không bao giờ gặp một vị tổ nào vừa là thiền sư lại vừa là dịch giả. Nhưng vị tổ thiền đầu tiên của Việt Nam là Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người dịch các kinh Tượng đầu tinh xá, Báo nghiệp sai biệt v.v…Rồi các vị thiền sư Việt Nam về sau như Pháp Thuận (925-990) viết Bồ tát hiệu sám hối văn, Viên Chiếu (999-1090) viết Tán viên giác kinh, Thập nhị Bồ tát hạnh tu chứng đạo tràng và Dược sư thập nhị nguyện văn [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản TpHCM, 1999, tr.194, 195, 250, 252, 262], Pháp Loa (1284-1330) đã viết Pháp Hoa kinh khoa sớ, Niết bàn đại kinh khoa sớ, Kim Cang trường đà la ni kinh khoa chú, Bát nhã tâm kinh khoa sớ v.v…truyền thống thiền học Việt Nam như vậy có một dấu ấn sâu đậm, tác động lên những người Phật giáo thiền tông Việt Nam về sau. Minh Châu Hương Hải đã kế thừa truyền thống này và phát huy nó lên một điểm cao mới, đó là chính thức giải quyết các kinh điển ấy ra bằng tiếng Việt mà ta hiện tìm thấy .
Những người Phật giáo thiền tông Việt Nam như vậy không đi đến cực đoan coi mọi kinh giáo là không phản ánh đầy đủ tư tưởng cốt lõi của Đức Phật, và chỉ có việc truyền tâm ấn mới phản ảnh trọn vẹn, như đã ít nhiều xuất hiện trong lịch sử thiền tông Trung Quốc. Trong lịch sử Phật giáo thiền tông Việt Nam, mọi kinh điển đều được đánh giá cao, nhưng được học tập và nghiên cứu với một nhận thức thiền tông. Cho nên Minh Châu Hương Hải đã viết các bản giải thích bằng tiếng Việt về những kinh điển tiêu chuẩn Phật giáo, từ Di Đà cho đến Kim Cang, từ Pháp Hoa cho đến Dược Sư, đây là một nét đặc trưng ta cần chú ý đến khi nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trước và sau Minh Châu Hương Hải đã có những vị thiền sư từng làm như vậy. Ta đã gặp Pháp Thuận, Viên Chiếu, Pháp Loa, Viên Thái, Pháp Tính rồi về sau những người như Chân Nguyên, Như Trừng, Pháp Chuyên, An Thiền, Thanh Đàm v.v…cho tới ngày nay, có một số người, khi thu thập được một số kiến thức về lịch sử thiền tông Trung Quốc, mà không nhận thức được sự khác biệt giữa thiền tông Trung quốc và thiền tông Việt Nam, nên đã nêu lên vấn đề tại sao thiền tông Việt Nam lại không giống thiền tông Trung quốc. Thậm chí họ còn hồ đồ bảo rằng “đối với đông đảo Phật tử Việt Nam, thiền đã (và vẫn) chỉ là những tin đồn từ tu viện, và họ không bao giờ thực sự chấp nhận nó v.v…” Phải thấy thiền Việt Nam khác thiền Trung quốc như thế nào trong nhận thức và thực tiễn, mới không đem lại cái khuôn hình thiền Trung quốc chụp lên hiện thực thiền Việt Nam. Người Phật giáo Việt Nam trên cả ngàn năm cho đến bây giờ vẫn nhận mình là thuộc một dòng thiền nào đó của Phật giáo Việt Nam. Và nhiều chùa Việt Nam vẫn gọi là chùa Thiền. Bản thân các vị thiền sư dù có tu luyện những pháp môn nào đi nữa, cuối cùng cũng vẫn nhận mình là thiền sư .
Vấn đề do đó là phải tìm cách mô tả thực tiễn thiền Việt Nam này, như nó đã xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, rồi từ đấy sẽ giúp ta nhận thức được những khác biệt cơ bản giữa các thực tiễn thiền của các dân tộc khác nhau. Cũng là thịt nướng cả, nhưng người Âu Mỹ thì làm khác mà người Việt nam thì làm khác. Cho nên , khi Minh Châu Hương Hải đã dành trên 30 năm cuối của cuộc đời mình để giải thích các kinh điển Phật giáo ra tiếng Việt, không phải ông đã làm một việc thoát ly ra khỏi cuộc sống thiền của chính bản thân ông. Ngược lại, lúc làm thế ông đã đưa chính tư tưởng thiền của mình vào. Trong Sự lý dung thông, tư tưởng thiền của ông được ghi nhận như thế này:
Thiền hà muôn phái một dòng Tào khê
Bể từ rạt sạch nguồn mê
Máy thiêng mở khép đề huề độ sinh
Chuyển vô minh bối trần hiệp giác
Vui về bề diệu dược liên bang
Dầu ai hiểu biết tâm vương
Chứng vô thượng đạo lên đường Như Lai
Ra nhân đức, nhuận ân oai
Làu tàu viên tịnh trong ngoài sáng thanh
Há còn chấp tướng ngại danh
Tùy cơ thuận nghịch tung hoành cũng ưa
Phát biểu như thế chỉ trong một số câu ngắn ngủi này, ta đã thấy tư tưởng thiền của Minh Châu Hương Hải bao gồm nhiều thành tố Phật giáo khác nhau. Ông đã nói tới diệu dược liên bang, tức tư tưởng tịnh độ, rồi tiếp theo đến khái niệm tâm vương, một khái niệm triết học duy thức. Nhưng tất cả tư tưởng và khái niệm này là nhằm thực hiện cho được mục tiêu “chuyển vô minh bồi trần hiệp giác” và đạt mục tiêu này là để “tùy cơ thuận nghịch” mà”ra nhân đức, nhuận ân oai”. Đây là tư tưởng thiền tích cực hành động, mà các vị tiền bối của Minh Châu Hương Hải đã từng sống và thể hiện. Cũng trong Sự lý dung thông, ông viết :
Đạo viên minh ngại chi chân tục
Miễn lòng rồi, tri túc thì nên
Năm mươi lăm phẩm dưới trên
Luyện tam muội hoả, chí bền kim cương
Rõ ràng khi nói thế ông đã ít nhiều tiếp thu tư tưởng Cư trần lạc đạo của thiền học Trần Nhân Tông :
Trần tục mà nên
Phúc ấy càng yêu hết tức
Sơn lâm chẳng cốc
Họa kia thực cả đồ công
Mà chính vì tư tưởng nhập thế ở đời vui đạo này, Minh Châu Hương Hải không những đã dặn dò những người tu thiền theo hướng :
Ấy lời khuyên dặn người thiền tử
Lý hiểu tường, sự giữ tiệm tu
Hằng rèn giới hạnh công phu
Lên đường tinh tấn nhẫn phù yên tâm
Mà còn phải :
Dốc làm chí cả trượng phu
Đạo nên trung hiếu, ân thù vẹn hai
Trong khi khó nhọc mựa nài
Sức dùng hà đảm Như lai viên thành .
Thật là minh bạch. Để gánh vác (hà đảm) công việc của Như Lai một cách thành công và trọn vẹn, người thiền tử phải là những đấng trượng phu có trung có hiếu. Mẫu người Phật giáo Việt Nam lý tưởng là như thế đó. Người Phật tử Việt Nam không chỉ biết nhắm đến giác ngộ, mà còn nhắm đến việc giác ngộ trong trung hiếu. và tư tưởng này cũng không phải đến thời Minh Châu Hương Hải lần đầu tiên đề ra, mà trong Lục độ tập kinh đã nói tới, và trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông [Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông toàn tập, Tu thư Vạn Hạnh, 1983] đã xác định một cách rõ ràng :
Sạch giới lòng, chùi giới tướng
Nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
Và gần Minh Châu Hương Hải hơn, Thọ Tiên Diễn Khánh [Lê Mạnh Thát, Thọ Tiên Diễn Khánh và truyện Nam hải Quan Âm, cảo bản, Tu thư Vạn Hạnh 1982]khi viết Nam hải Quan âm Phật sự tích ca, đã không ngần ngại ngay trong câu mở đầu đã nói lên mẫu người lý tưởng Phật giáo Việt Nam này :
Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được đấng thân
Nhân là vớt hết trầm luân mọi loài
Giống như khái niệm nhân nghĩa, phạm trù trung hiếu không phải là một phạm trù Nho giáo, người Việt Nam cũng có đạo lý trung hiếu trước khi tiếp thu đạo Nho. Cho nên, Phật giáo phối hợp tư tưởng trung hiếu của người Việt Nam với lý tưởng Bồ tát của mình để ta có một mẫu người Phật tử Việt Nam mới, người Phật tử trung hiếu. Nếu đem những tư tưởng này, đặc biệt là mẫu người Phật giáo thiền tông Việt Nam, ta khó tìm được những tương đương ở những nơi khác. Yêu cầu thực tiễn của dân tộc Việt Nam đòi hỏi Phật giáo Việt Nam, cụ thể là thiền tông Việt Nam, phải đề cho ra được một mẫu người phù hợp với thực tiễn dân tộc mình, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn ấy.
Cho nên thật buồn cười và dại dột khi muốn đem những phạm trù và tư tưởng thiền Trung Quốc áp đặt lên thiền Việt Nam, buộc thiền Việt Nam phải có những nét và phẩm chất tương tự như thiền Trung quốc thì mới được gọi là thiền. Tại sao lại phải làm thế? Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ là một bản sao của Phật giáo Trung quốc, chưa bao giờ được Phật giáo Trung quốc gầy dựng nên. Ngược lại, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã từng gầy dựng nên Phật giáo Trung quốc. Phải nhận thức được điều này, để khi đọc Minh Châu Hương Hải ta mới không ngỡ ngàng trước tư tưởng và mẫu người thiền của ông .
3. Nội dung thiền Minh Châu Hương Hải
Như ta đã thấy, khi Minh Châu Hương Hải viết Sự lý dung thông, thì hai phạm trù sự và lý ông dùng ở đây không phải nằm trong quỹ đạo của tư tưởng sự lý nổi tiếng của tồn phái Hoa Nghiêm Trung quốc. Ngược lại, sự và lý ở đây là sự và lý của thiền Việt Nam. Lý thiền đây là gì? Nó là :
Máy càn khôn một bầu thế giới
Vốn chứ từng thành hoại hư không
Rừng Nho bể thích dung thông
Linh đài vằng vặc, vừng hồng sáng thanh
Bồ đề quả mãn viên thành
Ẩm Quang còn nghĩ thái lành muôn duyên
Xưa sau thiên thánh vạn hiền
Chứng nên thành Phật thành tiên một lòng
Muôn điều ngàn mối rũ xong
Hằng sa tính đức há phòng niệm sinh
Lý thiền là thế, nghĩa là phải kết hợp lý luận Nho Phật để xây dựng một mẫu người lý tưởng Bồ tát trung hiếu, còn về sự, thì mẫu người lý tưởng này phải :
Lý hiểu tường, sự giữ tiệm tu
Hằng rèn giới hạnh công phu
Lên đường tinh tấn nhẫn phù yên tâm
Vậy về sự thì bao gồm việc tiệm tu giới hạnh, rõ ràng dù nhận mình thuộc thiền phái Tào khê, bởi vì :
Thiền hà muôn phái một dòng Tào khê
Nhưng Minh Châu Hương Hải vẫn chủ trương tiệm tu, một khái niệm, một chủ trương nổi tiếng của dòng thiền Thần Tú, đối lập lại với quan điểm đốn giác nổi tiếng của thiền phái Tào khê. Như thế, dù bản thân là một thiền sư dòng Lâm Tế thuộc thiền phái Tào khê, Minh Châu Hương Hải vẫn không chống lại mà còn cổ suý quan điểm tiệm tu của Thần Tú. Tuy nhiên, quan điểm tiệm tu này không phải hoàn toàn giống với Thần Tú. Thế thì nó có nội dung gì? Nội dung này ta có thể thấy dễ dàng qua tên đặt cho nơi ở của ông, đó là viện Thiền tịnh. Nói khác đi, thiền của ông đã kết hợp chặt chẽ với tư tưởng Tịnh độ, mà ông nói rõ trong Sự lý dung thông :
Chuyển vô minh, bối trần hiệp giác
Vui về bề diệu dược Liên bang
Tư tưởng tịnh độ (liên bang) được ông coi là một thứ thuốc mầu, điều này thể hiện rất rõ trong việc ông đã dịch giải các kinh A Di Đà, Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ cùng việc ông soạn Khoa cúng Cửu phẩm. Nhận thức này từ lâu đã được lưu hành ít lắm là từ thời Trần Thái Tông trở đi. Nhưng tiệm tu không chỉ bao gồm tư tưởng, mà gồm luôn cả một số cách thực hành đi đôi với tư tưởng ấy. Cũng trong Sự lý dung thông, ông đã viết :
Sạch lời đối đãi đua tranh
Bẻ rào nhân ngã, tẩy thành mạn nghi
Thanh trần gác để thị phi
Tịnh thân khẩu ý, thanh qui làu làu
Nết hằn trao ngôn từ đức hạnh
Trí phen đòi lượng thánh hiền xưa
Bữa dùng đạm bạc muối dưa
Bả bô thường tịnh, sớm trưa khỏi thì
Nội dung thiền của Minh Châu Hương Hải do vậy có những nét riêng của nó mà ta cần lưu ý khi tiếp cận các tác phẩm của ông .
Những bản kinh do ông dịch giải bằng tiếng Việt bao gồm các kinh Pháp Hoa, Kim cang, Di Đà, Vô lượng thọ, Địa tạng, Bát nhã tâm kinh và Phật tổ tam kinh. Phật tổ tam kinh tức các kinh Bát đại nhân giác, Tứ thập nhị chương và Di giaó mà các dòng thiền Trung quốc thường sử dụng cho việc học tập của các thiền sinh trong các thiền viện của mình [Mizuno K.,Nakamura H., Hirakawa A., và Tamashiro K., Butten kaitai jiten, Tokyo : Shunjusha, 1998, tr.75a]. Các bộ kinh còn lại thì qua lịch sử cũng được các dòng thiền Trung quốc cũng như Việt Nam quan tâm và sử dụng. Chẳng hạn thiền sư Thông Biện (?-1134) [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản TpHCM 1999, tr.205] đã nổi tiếng trì kinh Pháp Hoa, đến nỗi người bấy giờ gọi ông là Ngộ Pháp Hoa. Rồi hai thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, tr.198] tự thiêu vào năm 1034 cũng vì kinh này. Kinh Kim Cang thì đã nổi tiếng ở Trung quốc với Lục tổ Huệ Năng (638-713) còn ở nước ta thì Thanh Biện (?-686) [Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về thiền uyển tập anh, tr.255] là người đầu tiên chuyên trì tụng kinh Kim Cang.
Sau này Trần Thái Tông cũng vì “thường đọc kinh Kim cương đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vừa bỏ sách ngâm nga, bỗng nhiên tự ngộ, nhà vua bèn đem những điều giác ngộ được và làm bài ca đề tên gọi Thiền tông chỉ nam”, [Lê Mạnh Thát, Trần Thái Tông toàn tập, Tu thư Vạn Hạnh 1983, tr.65] Kinh Di Đà và Vô lượng thọ tuy cơ bản là những kinh sách gối đầu giường của người tu theo pháp môn Tịnh độ. Tuy nhiên, ở Trung quốc thì từ thời Vĩnh minh Diên Thọ, một tác giả mà Minh Châu Hương Hải biết tới và có trích dẫn thơ, người ta đã nêu cao chủ trương kết hợp thiền với tịnh độ, để cho sự tu chứng được thành tựu mỹ mãn. Một bài thơ của Vĩnh Minh Diên Thọ đã đề cập đến tình trạng một vạn người tu thiền chỉ có một người thành tựu, trong khi đó nếu kết hợp với tịnh độ thì cả vạn người này đều thành tựu được sự nghiệp tu thiền của mình.
Thực tế tư tưởng tịnh độ và thực tiễn tịnh độ xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ những năm 425, Đàm Hoằng đã từ miền Bắc Trung quốc đến chuyên tu pháp môn tịnh độ tại chùa Tiên Sơn ở Bắc Ninh, đến thời Lý tín ngưỡng A di đà phát triển mạnh. Có những ngôi chùa thiền chỉ thờ tượng Đức Phật A di đà mà thôi, cụ thể là chùa Viên Quang của thiền sư Giác Hải mà may mắn tấm bia nhan đề “Viên Quang tự bi minh tịnh tự” do Dĩnh Đạt viết vào năm Thiên phù duệ vũ thứ ba (1122) hiện đã tìm thấy :”Thế là thợ thuyền họp lại như mây, gỗ đá chất cao như núi, búa rìu đẽo gọt mà hoá ra cung trời; vàng biếc điểm tô mà trở nên điền báo. Tọa giữa là Giáo chủ Di Đà mắt xanh mày trắng lung linh, kế bên vẽ hình thượng nhân trụ thế, thân gầy mi đậm sờ sờ…”Rồi đến Trần Nhân Tông khi viết Cư trần lạc đạo phủ, cũng không quên căn dặn :
Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Chính trong truyền thống tư tưởng tịnh độ như thế, mà Minh Châu Hương Hải đã cho dịch giải Phật thuyết A di đà kinh sớ sao, mà Hương Hải thiền sư ngữ lục gọi là Giải Di Đà kinh và Giải Vô lượng thọ kinh. Nói tóm lại, khi thích giải các kinh điển, Minh Châu Hương Hải đã tiếp thu các tư tưởng truyền thống thiền Việt Nam để tạo cho các bản thích giải này một sắc diện mới trong nhận thức kinh điển của những người Phật giáo thiền tông nước ta. điều đáng tiếc là ngày nay các bản thích giải như Giải Địa Tạng kinh hay Giải Phật Tổ tam kinh vẫn chưa được tìm ra. Cho nên, ta chưa thể lý hội hết cách xử lý của Hương Hải như thế nào đối với các tín ngưỡng như tín ngưỡng Địa Tạng. Cũng thế, đối với tín ngưỡng Dược Sư do chưa tìm được Soạn cúng Dược sư, ta không biết ông đã có quan niệm gì về Đức Phật này với tư cách là một thiền sư. Điểm nổi bật vẫn là xuất phát từ cái nền Phật giáo quyền năng hình thành vào những thế kỷ đầu của sự có mặt Phật giáo tại nước ta, những người Phật giáo thiền tông về sau, trong đó có cả Minh Châu Hương Hải, đã xây dựng cho mình một dòng thiền dân tộc, vừa kết hợp tinh hoa của Phật giáo thế giới, vừa phát huy những mặt tích cực của nền Phật giáo quyền năng đó .
Nội dung tư tưởng thiền của Minh Châu Hương Hải, do thế, không phải tản mạn, như nhan đề những tác phẩm thích giải kinh điển của ông để lại. Trái lại, nó có tính nhất quán, nhất quán ở chỗ vì chủ trương “sự giữ tiệm tu” và “hằng rèn giới hạnh công phu”những người tu thiền theo quan điểm Minh Châu Hương Hải có thể thực hành một số những pháp môn khác nhau ngoài những lối tu, công án hay mặc chiếu, mà thiền Trung quốc đã đề ra. và nó cũng nhất quán ở chỗ nó đã xuất phát từ truyền thống thiền tông Việt Nam mà vào thời ông đã có một bề dày lịch sử trên cả ngàn năm, và đã hình thành một số quan điểm và phương pháp tu hành không phải hoàn toàn rập khuôn theo quan điểm phương pháp tu thiền của Trung quốc. Chính trong xu thế này mà Minh Châu Hương Hải đã phát biểu ý kiến của mình bằng thơ và văn tiếng Việt mà hiện tại ta đã tìm thấy 4 tác phẩm đã nói ở trên.
IV. VỊ TRÍ VĂN HỌC
Việc tồn tại các kinh điển bằng tiếng Việt theo nghiên cứu của chúng tôi đã xuất hiện từ lâu, ngay khi những lời dạy của Đức Phật được truyền thụ lại cho những người Phật tử Việt Nam như Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Điều bất hạnh là do thiên tai địch họa, đặc biệt là do dã tâm diệt chủng văn hoá của kẻ thù, số kinh điển này đã không được bảo lưu cho chúng ta ngày nay một cách nguyên vẹn. Dẫu thế chúng ta biết một số chúng đã có mặt rất sớm như Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tạp thí dụ kinh v.v…Và qua những năm tháng sau đó chắc chắn những kinh khác cũng đã được dịch ra tiếng Việt hoặc từ chữ Phạn, Pàli hay chữ Hán, nhưng hầu hết đã bị tán thất. Bản kinh sớm nhất còn nguyên vẹn bằng tiếng Việt mà ta có hiện nay là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có thể coi là được thiền sư Viên Thái (k.1400-1460) dịch vào khoảng giữa những năm 1440 khi đất nước đang nỗ lực dân tộc hoá các sinh hoạt văn hoá của mình sau thời gian bị giặc Minh chiếm đóng. Rồi thiền sư Pháp Tính (k.1470-1550) đã mạnh mẽ hô hào việc học tập tiếng Việt quốc âm :
Hồng phúc tên Hương Chân Pháp Tính
Bút hoa bèn mới đính nên thiên
Soạn làm chữ cái chữ con
San bản lưu truyền ai đặt thì thông…
Vốn xưa làm nôm xe chữ kép
Người thiểu học khôn biết khôn xem
Bây chừ nôn dạy chữ đơn
Cho người mới học nghĩ xem nghĩ nhuần .
Trong Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, chính trong phong trào dân tộc hoá đầy khí thế này, cả một cao trào sáng tác văn học bằng chữ Việt mới ra đời, và được bảo lưu cho tới ngày nay cho những tác gia lớn như Nguyễn Trãi, Viên Thái, Lê Thánh Tôn, Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thọ Tiên Diễn Khánh, Phùng Khắc Khoan, Lê Đức Mao, Nguyễn Giản Thanh v.v…Sinh ra và lớn lên trong khí thế của một cao trào đang phát triển ồ ạt như thế, ta không lạ gì khi hầu như toàn bộ tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đều viết bằng tiếng Việt. Đây là một đóng góp lớn lao của Minh Châu Hương Hải đối với lịch sử văn học dân tộc ta, đặc biệt là đối với nền văn xuôi Việt Nam. Lý do nằm ở chỗ nhiều người quan niệm nền văn học dân tộc ta phần lớn gồm những truyện thơ, tức là các loại truyện bằng văn vần và không có một nền văn xuôi hoàn chỉnh.
Bây giờ với việc khám phá ra bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của Viên Thái cùng với Tân biên truyền kỳ mạn lục giả thiết là của Nguyễn Thế Nghi và ba bản giải kinh của Minh Châu Hương Hải, tức Giải Kim Cang kinh lý nghĩa, Giải Di Đà kinh và Giải Tâm kinh ngũ chỉ, ta thấy nền văn xuôi Việt Nam đến thế kỷ thứ 17 đã phát triển rực rỡ và phong phú. Tiếng nói dân tộc được ghi lại một cách trung thành, sau các tác phẩm tiếng Việt đầu tiên hiện còn bảo tồn là Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông (1258-1308) và Vân Yên tự phú của Huyền Quang (1251-1334) .
Ngôn ngữ của bản kinh giải này đã đạt đến một vẻ đẹp văn học nhất định, chúng ta hiện có thể đọc các đoạn văn sau đây và cảm thấy chúng gần gũi với tiếng nói chúng ta ngày nay như thế nào, khi Minh Châu Hương Hải giải thích bài kệ cuối cùng của kinh Kim Cương :
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ứng tác như thị quan
Hết thảy hữu vi pháp là trên tự thiên địa tạo hoá, dưới đến nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu khó sang hèn, sĩ nông công thương, mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết thảy thiện ác muôn pháp cũng là hưũ vi vậy …”
Đọc các đoạn văn như thế này, rõ ràng Minh Châu Hương Hải đã có những đóng góp mới. Ông đã không dùng thủ pháp dịch đuổi mà cho đến thời ông tương đối khá phổ biến và được thử thách, thể hiện qua các công trình dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của thiền sư Viên Thái thuộc thế kỷ thứ 15 cũng như Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi thuộc thế kỷ 16. Dịch đuổi là dịch theo lối chữ nào nghĩa đó. Trường hợp các bản thích giải của Minh Châu Hương Hải không thuộc và sử dụng thủ pháp ấy, ông đã dựa vào một câu hay đoạn văn chữ Hán rồi giải thích bằng tiếng Việt quốc âm theo cách hiểu của bản thân ông, đây có thể nói là một đóng góp mới đối với lịch sử văn học tiếng Việt, bởi vì, tiếng Việt văn xuôi được dùng một cách tự nhiên, không bị gò bó bởi câu chữ của nguyên bản tiếng Hán. Có thể nói Minh Châu Hương Hải là người đầu tiên đã ghi lại những câu nói tiếng Việt bình thường của người Việt Nam vào thời ông trong khi trao đổi ý kiến hay giảng giải cho nhau nghe về những vấn đề gì, mà họ cảm thấy quan tâm hay thích thú. Việc này giúp ta xoá bỏ vĩnh viễn thành kiến cho rằng văn học dân tộc ta không có nền văn xuôi cho đến thời kỳ mất nước của thế kỷ 20, mà trước đây thường hay rao giảng một cách vô bằng .
Điều quan trọng hơn nữa là văn xuôi hay của Minh Châu Hương Hải có thể nói là đại biểu cho tiếng nói của một dân tộc thống nhất mà vào thời ông các sử sách ta thường hay đề cập đến việc chia cắt đất nước thành hai miền khác nhau, và các nhà lãnh đạo chính trị của hai miền này thường được giả thiết là muốn biến thành hai nước khác nhau. Thực tế, Minh Châu Hương Hải đã sinh ra, lớn lên và thành đạt ở miền Nam của Tổ quốc, tức tại vùng Trị Thiên và Quảng Nam ngày nay. Rồi sau đó, ông đã ra sống 30 năm cuối cùng của đời mình tại miền Bắc, ở tỉnh Hưng Yên hiện tại. Những tác phẩm văn xuôi do ông để lại cho chúng ta vì thế, thể hiện được tiếng nói thống nhất của cả hai miền tổ quốc. Đây là một đặc điểm khác của văn xuôi Minh Châu Hương Hải, mà ta cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu được tiếng nói của dân tộc ta vào thời bấy giờ. Văn xuôi của Minh Châu Hương Hải không còn là loại văn xuôi dịch thuật, mà đã bắt đầu buớc qua địa hạt văn xuôi sáng tác, dùng văn xuôi tiếng Việt hàng ngày để thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm của mình, để vươn lên và đạt tới một nền văn xuôi văn học.
Vậy thì Minh Châu Hương Hải đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam, người mở đầu cho nền văn xuôi sáng tác tại Việt Nam, mà ta hiện biết. Cho nên, phải nói rằng Hương Hải mới chính là người đã đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam bằng tiếng Việt chứ không phải tác giả Truyền kỳ mạn lục, như quan điểm của các sách về lịch sử văn học Việt Nam trước đây. Ai đã chịu khó đọc sơ qua lịch sử văn học hiện thực Trung quốc, thì cũng biết Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục đã mô phỏng theo Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh Trung quốc, trong đó thậm chí có truyện đã lấy lại hẳn cốt truyện của Cù Hựu, với chỉ một vài thay đổi về nhân danh và địa danh. Vì vậy, nói đến văn xuôi sáng tác tiếng Việt, ta phải coi Minh Châu Hương Hải là người tiên phong, tối thiểu là trong lĩnh vực sở trường của ông, lĩnh vực tư tưởng Phật giáo và sử dụng tiếng nói dân tộc .
Tất nhiên, tiếng Việt thời Minh Châu Hương Hải cách chúng ta gần 400 năm, có những nét đặc thù mà khi tiếp cận ta cảm thấy khó khăn cho việc nhận thức và lý hội. Chẳng hạn những từ như bui ( ), lệ ( ), hợp ( ) v.v… với nghĩa chỉ, sợ và nên ngày nay không còn dùng trong tiếng Việt hiện đại, nhưng không phải vì thế mà ta không hiểu tác phẩm văn xuôi của ông. Thực tế, như đoạn văn xuôi chúng tôi trích ở trên cho thấy tiếng Việt thời ông không xa với tiếng nói của người Việt chúng ta ngày nay bao nhiêu .
Chúng ta hãy đọc một đoạn văn mở đầu cho bản Giải tâm kinh ngũ chỉ sau đây thì cũng có thể thấy :”Nương lời trong kinh, dịch rằng Thích Ca Thế Tôn thuở trú trong Linh thứu sơn, vào tọa thiền, nhập Quang minh đại định. Khi ấy Xá Lợi Tử bạch Quán Tự Tại Bồ Tát rằng :”Dầu có chúng sinh tu hành, muốn học cửa pháp Bát Nhã thần thông vi diệu, rằng làm sao cho hiểu thấu được”Quán Tự Tại Bồ tát bèn dạy bảo Xá Lợi Tử rằng :”Thích Ca Thế Tôn diễn thuyết đại bộ Bát Nhã 600 quyển. Một Bát nhã tâm kinh này lấy làm chí tinh chí yếu, , là mẹ đại bộ chư kinh, truyền sang Đông Độ đã 5 lần dịch, đến đời Đường Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu dịch truyền để Đông Độ lấy làm chính giáo thịnh hành …”
Đọc đoạn này, tiếng Việt của Minh Châu Hương Hải đâu có cách xa gì với tiếng Việt của chúng ta hiện nay. Chỉ có vấn đề là ông đã giới hạn việc sử dụng tiếng Việt trong việc giải thích các kinh điển Phật giáo, mà không mở rộng đến các lĩnh vực khác của đối tượng văn học, tất nhiên ta không thể đòi hỏi nhiều ở Minh Châu Hương Hải, những con người tiên phong .
Điểm lôi cuốn hơn nữa là Minh Châu Hương Hải không phải không biết làm thơ bằng tiếng Việt. Sự lý dung thông là một điển hình, đây là một bài thơ hay, lời lẽ điêu luyện, hình tượng hấp dẫn dài 162 câu, được viết theo thể song thất lục bát, đứng vào hàng những bài thơ song thất lục bát đầu tiên của dân tộc, mở đầu cho những danh tác về sau như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích. Vì vậy, việc ông dành một số lớn thời gian để thích giải các kinh điển Phật giáo bằng văn xuôi tiếng Việt đã chứng tỏ ông có một niềm đam mê và yêu mến như thế nào đó đối với tiếng nói hằng ngày của đồng bào mình. Tình cảm nồng đậm này phải kể là một điểm son khác của sự nghiệp Minh Châu Hương Hải.
Sau ông vẫn còn tìm thâý những người Việt Nam khác đã dùng thơ truyện để diễn giải kinh truyện Phật giáo như Chân Nguyên trong Đạt Na thái tử hạnh, Nam hải Quan âm bản hạnh, v.v…và Pháp Liên trong Pháp Hoa quốc ngữ kinh. Thế mà vào thời mình, ở thế kỷ thứ 17, Minh Châu Hương Hải đã mạnh dạn giảng giải kinh điển cho đồng bào mình bằng tiếng nói thường ngày của họ. Nói khác đi, không phải Minh Châu Hương Hải không có tài làm thơ, nên ông đã dùng văn xuôi để viết nên các tác phẩm của mình. Trái lại nữa là khác, nhưng ông đã viết hầu như toàn bộ tác phẩm của mình bằng văn xuôi, mà hiện tại ta đã tìm thấy 3 tác phẩm, thì đó là một biểu hiện tấm lòng yêu mến của Minh Châu Hương Hải đối với tiếng nói thường ngày của dân tộc ta.
Đây là một số những thu hoạch sơ bộ của chúng tôi, khi nghiên cứu các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải, để cho ra đời toàn tập này. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tìm hiểu sâu xa hơn để xác định đúng đắn không những vị trí của Minh Châu Hương Hải trong lịch sử văn học dân tộc, mà còn để làm rõ quá trình phát triển và tiến hoá của lịch sử văn học Việt Nam, giúp cho con cháu ta nhận thức chính xác những cống hiến to lớn của tổ tiên trong việc giữ gìn và bồi đắp tiếng nói của dân tộc. Quá trình phát triển văn học dân tộc bằng tiếng Việt là một quá trình đấu tranh cam go, khốc liệt chứ không phải là quá trình phát triển dễ dàng và êm thắm, đặc biệt là trong lĩnh vực văn xuôi. Quá trình này có sự đóng góp của nhiều người qua nhiều thế kỷ, mà ngày nay tác phẩm phần lớn đã bị thất truyền, từ những bản kinh đầu tiên thời Hùng vương cho đến những tác phẩm của Từ Đạo Hạnh v.v…cuối cùng đến Trần Nhân Tông và Huyền Quang, chúng ta có được những tác phẩm đầu tiên của dân tộc được bảo tồn nguyên vẹn, rồi đến Trần Tùng Quang, Nguyễn Biểu, nhà sư chùa An Quốc, Nguyễn Trãi, Viên Thái v.v…chúng ta có một loạt những tác phẩm văn học được lưu truyền cho đến ngày nay.
Tới nhóm thơ Tao Đàn do Lê Thánh Tôn thành lập rồi các tác phẩm của Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v…cả một cao trào sử dụng tiếng Việt để làm thơ, văn đang hừng hực vươn lên chiếm lĩnh vị thế chủ đạo, Pháp Tính đã mạnh dạn nói rằng mình đã kế thừa sự nghiệp tự điển quốc âm của Sĩ nhiếp, thiết định lại chữ viết tiếng quốc âm cho mọi người dễ học, dễ nhớ. Nhưng tất cả các vị này hầu hết đều bằng tiếng Việt thơ mà không phải tiếng Việt văn xuôi, điều này ta phải đợi đến Minh Châu Hương Hải mới có được những thành tựu đầu tiên hiện được lưu truyền. Chúng ta cần phải trân trọng những thành tựu đó và cần nghiên cứu thêm hơn nữa để hiểu biết trọn vẹn hơn quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc ta.
PHẦN HAI
CÁC TÁC PHẨM
GIỚI THIỆU
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
Đúng ra trong Minh Châu Hương Hải toàn tập này, chúng tôi không đưa Hương Hải thiền sư ngữ lục vào, bởi vì, tự bản thân, nó không phải là một tác phẩm của Minh Châu Hương Hải. Tuy nhiên, những gì ta biết ngày nay về Minh Châu Hương Hải, thậm chí những hiểu biết sai lầm về thơ văn mà từ thời Lê Quý Đôn trở đi đã gặp phải, đều xuất phát từ tác phẩm ấy. Do thế chúng tôi đề nghị cho sơ bộ tìm hiểu và dịch lại toàn bộ văn bản Hương Hải thiền sư ngữ lục để làm tài liệu nghiên cứu cho những ai quan tâm đến Minh Châu Hương Hải .
I. TÌNH TRẠNG VĂN BẢN
Bản chúng ta hiện có ngày nay là bản in năm Cảnh Hưng thứ 8, Đinh Mão (1747) khổ 27*17, gồm 46 tờ, mỗi tờ 2 trang a và b, mỗi trang 7 dòng, mỗi dòng 32 chữ, trừ những dòng có in thơ thì số chữ ít hơn, mỗi dòng có thể từ 10 đến 14 chữ tùy theo thể thơ. Chữ khắc đẹp, rõ nét, dễ đọc, bản chúng tôi hiện sở hữu sau tờ 1 chép bài tựa, thì tờ 2 đã rách mất hoàn toàn. Tờ cuối cùng là tờ 46 nhưng căn cứ văn mạch thì chắc chắn phải còn thêm một vài tờ nữa, điều này có nghĩa tình trạng nguyên bản nó không phải chỉ có 46 tờ như tahiện sở hữu mà phải có số tờ hơn thế, suy nghĩ này của chúng tôi là hoàn toàn xác đáng vì chúng tôi có một bản chép tay, không biết do ai chép và chép vào lúc nào, có số tờ dòng y như bản in nghĩa là tờ thứ 2 vẫn bị rách mất, nhưng tờ cuối cùng thì sau tờ 46 lại có trang a của tờ 47 và chép nối thêm một đoạn ghi việc thượng tọa phương trượng đại hoà thượng dựng tháp và cúng kỵ Minh Châu Hương Hải, trang này còn chép thêm việc vào mùa đông năm Dần (có thể là năm giáp Dần 1734) thượng tọa phương trượng đã tham dự vào việc khảo thí chư tăng.
Ai đứng in bản in này ta không thấy ghi rõ tên tuổi, chỉ ghi một cách mơ hồ là tự pháp soạn thuật, căn cứ vào bản danh sách những người tự pháp ghi ở tờ 21a3-4 thì có khả năng thiền sư Chân Lý Hiển Mật, người được nhà nước thời bấy giờ ban tặng cho mỹ hiệu Viên Thông phương trượng đại hoà thượng, đứng ra thực hiện. Chân lý Hiển Mật đứng ra in bản Hương Hải thiền sư ngữ lục này thì cũng đúng thôi, bởi vì ông là vị đệ tử đầu tay của Minh Châu Hương Hải. Song lời tựa viết cho lần in này có nội dung quá tổng quát, hâù như không đề cập gì đến Minh Châu Hương Hải, nó chỉ nói tới Phật giáo bắt nguồn từ Ấn độ rồi truyền qua Trung quốc vào thời Hán Minh đế, rồi tới nước ta mà thỉ tổ theo nó là Tuệ Trung, rồi các vua Trần như Trần Nhân Tông v.v…mà không có bất cứ một câu nói xa gần gì đến vị thầy của mình .
Tuy nhiên, nếu đọc kỹ hơn chính nội dung của Hương Hải thiền sư Ngữ lục, ta thấy từ hàng chữ Như trở xuống, và đặc biệt là từ hàng chữ Tính và chữ Hải, các môn đồ cháu chắt của Minh Châu Hương Hải mới có ghi việc cúng bảng gỗ hoặc cúng tiền để khắc kinh, còn hàng chữ Chân trở lên thì không thấy ghi có ai cúng gì cả. Điều này có nghĩa các đệ tử có tên tuổi vào hàng chữ Chân của Minh Châu Hương Hải đến thời điểm in bản ngữ lục này, tức năm Cảnh Hưng thứ 8 Đinh mão (1747) đã viên tịch, nên đã không tham gia vào việc hỗ trợ việc in khắc, thực tế ngay đối với hàng chữ Như thì trong số 24 người được ghi trên, chỉ thấy ghi 6 người có cúng bảng gỗ. Đến hàng chữ Tính có 25 người thì có đến 14 người cúng bảng gỗ hoặc tiền, đến hàng chữ Hải thì hầu hết môn đồ đều có cúng bảng gỗ. Nói khác đi, khi khắc ván Hương Hải thiền sư ngữ lục, thì chủ yếu thuộc lớp môn đồ còn sống thuộc về chữ Như, chữ Tính và chữ Hải .
Vậy người viết bài tựa và đứng ra in Hương Hải thiền sư ngữ lục phải là Như Nguyệt Hoa Quang, hơn là Chân Lý Hiển Mật, mà vào lúc này (tức năm 1747) đã viên tịch. Chứng cớ cho một kết luận như thế nằm ngay trong một nội dung của chính Hương Hải thiền sư ngữ lục. Ở tờ 15b4-5 phần 5 về Dẫn xuất trụ trì khai sáng Nguyệt Đường tự ký, khi mô tả về qui mô chùa Nguyệt Đường, nó ghi nhận “có bảo tháp tổ sư bên trái cao 21 thước, lại có bảo tháp tôn sư bên phải cao 25 thước, hai tháp đều có sư tử hai bên bằng đá”. Hai từ tổ sư và tôn sư dùng ở đây chỉ cho ai? Rõ ràng chúng không thể chỉ ai khác hơn là Minh Châu Hương Hải và Chân Lý Hiển Mật, bởi vì sách đó thường dùng chữ tổ sư để chỉ cho Minh Châu Hương Hải, nên tôn sư không thể chỉ ai ngoài Chân Lý Hiển Mật được. Nói khác đi, Chân Lý đã viên tịch và được xây bảo tháp, khi in Hương Hải thiền sư ngữ lục, để có thể ghi lại. điều này có nghĩa Chân Lý đã mất vào trước năm 1747 .
Về tên gọi bản in mà chúng tôi sở hữu, trang bìa đã mất nên không biết từ nguyên ủy có nhan đề làgì. Tuy nhiên trên gáy sách của tất cả các trang đều ghi Hương Hải thiền sư ngữ lục, do thế, ta có thể nói tác phẩm của lần in này có nhan đề ấy .
II. VỀ TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI
Bản in chúng ta hiện có vì trang đầu và những trang cuối đều mất, nên ta không biết trong lần in năm 1747 này có ghi tên ai là tác giả của Hương Hải thiền sư ngữ lục hay không. Dẫu thế căn cứ vào cuối lời tựa ghi là tự pháp sọan thuật thì có khả năng bài tựa này phải là hoặc do Chân Lý Hiển Mật, hoặc do Như Nguyệt Hoa Quang viết. Chúng ta giả thiết có thể là do Chân Lý Hiển Mật bởi vì tác phẩm của Minh Châu Hương Hải hiện tìm thấy, tất cả đều ghi là do Chân Lý soạn thuật như Giải Kim Cang kinh lý nghĩa, hay không thuật như Giải Di Đà kinh và Giải Tâm kinh ngũ chỉ.
Dù vậy, vì việc cúng bảng gỗ và tiền cho việc in khắc Hương hải thiền sư ngữ lục lại thuộc lớp môn đồ có pháp danh bắt đầu với chữ Như trở đi, nên ta có thể nghĩ hai chữ tự pháp ghi trong lời tựa không phải chỉ Chân Lý Hiển Mật, mà thực tế nó chỉ Như Nguyệt Hoa Quang, người đã kế thừa Minh Châu Hương Hải và Chân Lý Hiển Mật để làm trụ trì chùa Nguyệt Đường. Vì vậy,khi ghi tự pháp soạn thuật mà không ghi rõ tên, pháp danh hay pháp tự, điều này có nghĩa ai cũng biến pháp tự của Minh Châu Hương Hải là ai, nên mới không cần ghi rõ như thế, đây là lý do thứ hai để cho phép ta nghĩ rằng người đứng ra viết Hương Hải thiền sư ngữ lục không ai khác hơn là Như Nguyệt Hoa Quang .
Dù là Chân Lý Hiển Mật hay Như Nguyệt Hoa Quang đã viết Hương Hải thiền sư ngữ lục, thì điều đáng tiếc là lai lịch và tiểu sử của hai vị thiền sư này ngày nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Về Chân Lý Hiển Mật, hiện tại ngôi tháp cổ của ông đã được tìm thấy, và bên ngoài chỉ đề Phương trượng tháp, còn bên trong thì có tấm bia chỉ có một dòng khắc tên đạo của ông mà thôi. Trong Giải Tâm kinh ngũ chỉ có ghi một tên khác của Chân Lý Hiển Mật, đó là Chân Lý Nhân Triều, vậy thì ngoài pháp tự Hiển Mật, Chân Lý còn có tên là Nhân Triều. Trong Giải Kim cương kinh lý nghĩa có ghi thêm chức vụ tăng thống của Chân Lý, tức Sa môn tăng thống tự Chân Lý soạn thuật. Đấy là tất cả những gì chúng ta hiện biết về người cao đệ này của Minh Châu Hương Hải, người đã giữ trách nhiệm truyền lại cho chúng ta bản thích giải bằng tiếng Việt hiện có.
Còn về niên đại, thì vì Hương Hải thiền sư ngữ lục in vào năm 1747 ta không thể chắc chắn ông đã sống tới những năm đó vì đã gần cả trăm tuổi, do việc có khả năng ông là một trong những người đã theo Hương Hải từ miền Nam vượt biển ra Bắc vào năm 1682. Dựa vào sự kiện ông đã soạn thuật, tức biên chép lại những lời giảng của Minh Châu Hương Hải ta có thể giả thuyết ông là người tương đối có kiến thức rộng rãi về chữ Hán và chữ Nôm. Chỉ có điều nếu ông có một kiến thức chữ nghĩa rộng rãi cỡ đó, tại sao Hương Hải thiền sư ngữ lục lại gồm một số thơ kệ và trích văn của những thiền sư Trung quốc và gắn lên tên tuổi của Minh Châu Hương Hải, để ngày hôm nay ta phải tốn công sưu tra về xuất xứ của chúng, thế đã rõ, không có việc Chân Lý Hiển Mật tham gia vào việc viết hay in tác phẩm ấy .
Dù ở trường hợp nào, thì ta không thể nghĩ Chân Lý Hiển Mật đã sống tới những năm đó, tức năm 1747. Ngược lại, nếu giả thiết Như Nguyệt Hoa Quang viết Hương Hải thiền sư ngữ lục, thì điều này có khả năng hơn nhiều. Bởi vì Kiến văn tiểu lục 9 tờ 33b3-34a4 của Lê quý Đôn có chép về chuyện lạ trong việc mở rộng chùa Nguyệt Đường vào năm 1724-1725 liên quan đến Như Nguyệt Hoa Quang nhưng không ghi Như Nguyệt lúc ấy đã mất hay chưa. Ta biết Lê Quý Đôn viết Kiến văn tiểu lục xong vào năm Cảnh Hưng thứ 38, Đinh dậu (1777). Nhưng tác phẩm này là một tích lũy lâu dài những tư liệu trước đó. cho nên những ghi chép về Như Nguyệt Hoa Quang có thể được ông thực hiện vào những năm 1747, năm in Hương Hải thiền sư ngữ lục, dẫu sao về Như Nguyệt Hoa Quang ta cũng không có những chi tiết gì cụ thể hơn ngoài những thông tin vừa nêu trên .
III. PHÂN TÍCH NỘI DUNG
Hương Hải thiền sư ngữ lục hiện nay ngoài bài tựa ra, nội dung được chia làm bảy phần với những đề mục như sau :
-(Đã mất)
-(Đã mất)
-Thừa dẫn kiến, Quảng chúa thích sàm, truyền sư hồi bản quán cựu xứ ký đệ tam
-Xuất ngoại cảnh, cận trấn sở kiến Thiền tịnh viện kỵ đệ tứ.
-Xuất trú trì khai sáng Nguyệt đường tự ký đệ ngũ
-Khai thị ngộ nhập đắc lương duyên, truyền thọ ấn chứng ký đệ lục .
-Tổ sư đương bát thập bát, chúc niết bàn ký đệ thất .
Đó là sự phân chia nội dung của chính Hương Hải thiền sư ngữ lục, vì tờ 2 bị mất nên nhan đề của hai phần đầu ngày nay ta không biết có tên thế nào, năm phần còn lại có tên như đã ghi. Không biết sau phần bảy còn có phần nào nữa không, vì bản in chúng tôi sở hữu sau tờ 46 không còn một tờ nào nữa. riêng bản chép tay thì cũng chỉ còn được một mặt a và không có dâú hiệu gì giúp ta giả thiết còn một phần nào nữa. Dù bị thất thoát một số tờ như thế, nội dung của Hương Hải thiền sư ngữ lục tương đối đầy đủ và phong phú hơn, so với bất cứ một bản tiểu sử các thiền sư nào mà ta hiện biết như Từ quang tự sa môn Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm thiền sư nhân do sự tích chí .
Dẫu hai phần đầu bị mất, song nhờ Lê Quý Đôn có tóm tắt lại trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 21b3-22a6, ta biết tương đối khá rõ lai lịch gia đình của Minh Châu Hương Hải và giai đoạn đầu cuộc đời tu hành của ông. Đây là 2 phần nói về Hương Hải có tổ tiên là Hùng quận công, người hương Áng Độ, huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An ngày nay. Thiền sư thông minh từ bé, năm 18 tuổi đã đỗ hương tiến, được bổ làm tri phủ Triệu Phong, năm sư 25 tuổi tức năm 1652 đến thụ giáo với thiền sư Lục Hồ Viên Cảnh và được pháp danh là Minh Châu Hương Hải, pháp hiệu là Huyền Cơ Thiện Giác, sau đó lại đến tham học tiếp với thiền sư Đại Thâm Viên Khoan, rồi thì từ quan và đi xuất gia, vượt biển đến Cù lao Chàm, xưa gọi là Tiêm Bút la, dựng am tu hành. Ma quỷ đến phá nhưng sư vẫn kiên trì không thay đổi. Phần tờ 1 bị mất có lẽ có nội dung như Lê Quý Đôn đã ghi mà ta vừa tóm tắt, những biến cố còn lại của phần 2, tức các tờ 3,4, 5, 6 và 7 trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, Lê Quý Đôn cũng tóm tắt lại trong Kiến văn tiểu lục tương đối trung thành, chỉ loại bớt những câu và chữ không cần thiết.
Những biến cố ấy được mô tả như vào một đêm lúc canh hai, môn đồ của Minh Châu Hương Hải đã thấy ma hiện đến đứng giữa sân, rồi canh ba thấy có rắn lớn đi quanh thân thể của sư, tiếp theo những sự việc như đang giữa ban ngày mà mây đen kéo mịt, gió lớn nổi lên. Ban đêm nghe tiếng hằng muôn con mèo kêu khắp rừng, ma quỷ lại hiện đến, Sư nhờ trì chú niệm kinh mà ma cảnh đều biến mất. Sau đó sư nghĩ đến việc trở lại quê mình ở xã Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam, nhưng mới về được hơn 10 ngày thì có người Mán đến thỉnh cầu sư trở lại am cũ, sư đồng ý và trở lại đảo Tiêm bút la. Ở được 8 năm, tiếng tăm sư nổi lên cả nước. quan trấn thủ Quảng Nam là Thuần quận công có vợ đau lâu ngày không bớt, nhờ sư đọc chú trì kinh thì bệnh vừa thuyên giảm, tiếng lành đồn xa, bạn của Thuần quận công là Hoa Lễ Hầu cũng lâm bệnh đã 3 năm, lại nhờ sư tụng kinh trì chú chữa khỏi, chỉ trong 10 ngày “thân thể tráng kiện như xưa”. Rồi thông qua Hoa Lễ Hầu, Dũng quận công Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã mời tới Huế giúp nước, cho ở tại viện Thiền tịnh, núi Qui Thái. Mẹ của Dũng quận công đã quy y với sư cùng 3 người con là Nguyễn Phúc Mỹ, Nguyễn Hiệp Đức và Nguyễn Phúc Tộ, đoạn này Lê Quý Đôn tóm tắt hoàn toàn thống nhất với những gì vừa ghi ở trên .
Qua đến phần 3 kể lại việc thừa lệnh dẫn gặp chúa Hiền, tức Nguyễn Phúc Tần và việc chúa Hiền nghe những lời sàm tấu đã buộc sư trở về lại Quảng Nam, từ đó sư có ý định trở ra miền Bắc, ấy là vào tháng 3 năm Nhâm tuất (1682). Đến Vinh ông gặp Yến quận công Trịnh Điềm, sau khi điều tra sơ bộ, do lệnh của Trịnh Tạc (1653-1682) đã chuyển về Đông đô giao cho Lê Hy điều tra thêm. Sau khi đã xác minh đúng đắn sự việc, bèn cấp tiền lương cho sư và cuối cùng cho về ở tại trấn Sơn Nam do Tước quận công Lê Đình Kiên quản lý, ấy là lúc sư đã 55 tuổi .
Phần thứ 4 viết lại chuyện dựng Thiền tịnh viện để thờ Phật tụng kinh. Chính trong phần này Hương Hải thiền sư ngữ lục đã ghi tên 20 tác phẩm mà Minh Châu Hương Hải đã thích giải bằng tiếng Việt cùng các khoa nghi cúng Phật và cúng Dược Sư .
Phần 5 mô tả việc sư xây dựng chùa Nguyệt Đường vào năm Canh Thìn (1697), lúc ông đã 70 tuổi. Chùa này do cung tần Nguyễn thị Ngọc Hân dựng và mời sư đến trú trì và trùng tu lại. Chùa gồm có thượng điện 3 gian 2 chái, thờ 9 pho tượng tam thế toàn bằng vàng và một số các tượng khác như tượng Tứ Đại Thiên Vương. Rồi dựng lại tiền đường hai toà mỗi toà 5 gian thờ tượng Địa Tạng và tượng Di Lặc và một tượng Tề Thiên Đại Thánh cùng hai tướng Hộ Pháp. Tiếp theo dựng lại hậu đường gồm 2 toà mỗi toà 5 gian có thờ tượng 18 La Hán và tượng Chuẩn Đề 3 mắt 18 tay và một số tượng khác nữa. Rồi có tả vu hữu lang xây bằng gạch có 9 gian treo các tượng Phật và Bồ tát, bên ngoài chùa có đài Cửu phẩm liên hoa và các tượng Hộ pháp, rồi phía đông bắc có nhà bếp, tây nam có tàng kinh các, rồi các tăng phòng gồm 7 toà vây bọc, lại có tổ đường và vùng bảo tháp của tổ sư và tôn sư.
Phía trước lộ có tam quan, bên trái có lầu chuông, trên treo đại hồng chung cỡ nhỏ, và dưới treo đại hồng chung cỡ lớn. Bên phải có lầu trống, toàn cảnh chùa đều trồng cây cỏ và hoa đẹp. Chính tại ngôi chùa này Lê Dụ Tông đã mời sư lập đàn cầu thai, và cũng ở đây Lê Dụ Tông đã hỏi sư về thiền lý mà câu nổi tiếng thường hay được trích dẫn đó là :”Ý Phật và ý tổ là như thế nào”, để trả lời sư dùng lại bài thơ “Nhạn quá trường không” của Thiên Y Nghĩa Hoài. Lúc này tức năm Giáp ngọ (1714), sư đã 87 tuổi. Trịnh Cương đã tặng cho sư bài thơ Nôm, và Đặng Đình Tướng cũng đã đến thăm chùa và tặng thơ bằng chữ Nho cùng bài thơ đáp lại của sư mà ta đã dẫn trên. Cũng trong phần này đã ghi lại cuộc tranh luận của sư với ba Giáo sĩ Thiên chúa giáo do Đặng Đình Tướng tổ chức và kết quả là có lệnh cấm đạo .
Phần 6 ghi lại tên tuổi các môn đồ và pháp phái của sư gồm một danh sách gần 100 người, cùng một loạt các bài thơ kệ và trích văn, tương truyền là do sư “nhàn đàm thị chúng”. Nhưng hầu như toàn bộ thơ văn này là các trích dẫn từ các tác phẩm thiền tông Trung quốc, như chúng tôi đã chứng minh trong phần nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Minh Châu Hương Hải ở trên .
Phần 7 ghi lại những lời trăn trối vào những ngày cuối cùng của sư, và đến ngày 12 tháng năm Ất mùi (1715) vào khoảng 2 giờ chiều, sư đã mất sau khi đã viết bài kệ phú chúc .
Trên đây là tóm tắt ngắn ngủi về nội dung của Hương Hải thiền sư ngữ lục. Nội dung này có chứa đựng những thiếu sót, như việc chép các thơ văn của các thiền sư Trung quốc vào cho Minh Châu Hương Hải. Những lẫn lộn về thơ văn này, chúng tôi đã cho nghiên cứu kỹ ở phần trên trong liên hệ với vấn đề tác phẩm và sự nghiệp của Minh Châu Hương Hải. Ở đây, chúng tôi chỉ xin dẫn ra một số kết luận sơ bộ. Một là về văn thì có tất cả 14 đoạn, sau khi đã trừ ra 3 đoạn là những bài thơ, thì chúng tôi đã truy cứu được xuất xứ của 5 đoạn đến từ các tác giả Trung quốc hiện tìm thấy trong các sách vở có ghi chép về họ. Số còn lại chắc chắn cũng có xuất xứ ngoại lai, chứ không phải của Minh Châu Hương Hải, nhưng hiện chưa truy cứu được. Chúng tôi sẽ bổ sung trong lần tái bản sau. Hai là về thơ có tất cả 59 bài, kể luôn cả những bài chép lẫn vào trong các trích văn, thì có tới 47 bài là hoàn toàn hay một phần xuất phát từ các cây bút Trung quốc, 12 bài còn lại thì 5 bài có khả năng là của Minh Châu Hương Hải, tức các bài thơ số 3, 4, 14, 15 và 59 theo cách đánh số của chúng tôi .
Dẫu thế, những ghi chép chi tiết khác về nguồn gốc gia đình và cuộc đời của Minh Châu Hương Hải từ bé cho đến lúc viên tịch đáng để cho chúng ta tìm hiểu. Ngoài ra, việc mô tả khá tỉ mỉ, qui mô và cách kiến trúc thờ tự của chùa Nguyệt Đường sẽ đóng góp cho ta những hiểu biết cụ thể về những ngôi chùa xưa ở thế kỷ thứ 17 và 18. Hơn nữa lối văn chữ Hán của bản ngữ lục này phản ảnh khá nhiều ngữ pháp tiếng Việt. Thí dụ ngay trong lời tựa ta có câu nãi chí đại Đường Huyền Tráng mà ta có thể dịch bèn đến Huyền tráng đời Đường. Rồi trong nội dung ở tờ 8b2-3 ta có câu :”Bỉ Gia quận tế dĩ niên cao, lự lộ sinh tử, dục thanh sư thỉnh vấn…” thì rõ ràng câu lự lộ sinh tử là một câu chữ Hán viết theo ngữ pháp tiếng Việt với nghĩa lo đường sống chết. Và tên các chúa Hiền (tờ 9a2), trưởng quan (tờ 19b5) v.v…đều có cấu trúc của ngữ pháp tiếng Việt. Nói chung, đây là một văn bản chữ Hán, nhưng lại đầy những cấu trúc tiếng Việt. Nó sẽ giúp ta tìm hiểu về lối viết văn chữ Hán của người Việt, và giúp chứng cớ để hiểu các văn bản chữ Hán xưa hơn nó đã được viết tại nước ta, như trường hợp Lục độ tập kinh hay Cựu tạp thí dụ kinh .
Chúng tôi do thế đề nghị cho dịch lại toàn bộ bản Hương Hải thiền sư ngữ lục, và cho in kèm vào đây sau phần nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của ông để làm tư liệu tìm hiểu cho những ai quan tâm đến những cống hiến của Minh Châu Hương Hải đối với lịch sử văn học, tư tưởng và Phật giáo dân tộc .
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
LỜI TỰA
[1a1] Mảng nghe nước Tây thiên trúc, Phật Tổ truyền đến, bắt đầu từ vua Tịnh Phạn sinh ra thái tử. Thái tử lên núi Tuyết, thành đạo gọi là Thế Tôn, diễn thuyết ba tạng kinh văn. Rồi dời đến phía đông nước Chấn đán thời vua Hiếu Minh Hoàng đế của triều Hán, đến tới đời Đường, Huyền Tráng phụng chiếu nhận theo hơn 500 năm .
Rồi lần lữa truyền đến Nam bang mà thỉ tổ Tuệ Trung được ấn chứng của Tiêu Diêu, bèn dạy đạo cho vua Trần truyền đến 5 đời thánh quân, rõ được huyền cơ của Phật pháp, thông hiểu ý sâu của hiển mật. Hoàng đế (Trần) Nhân Tông bỏ nước xuất gia đến núi Hoa yên thành tổ Điều Ngự. Từ đó, trời Phật thêm sáng, xe pháp chuyển mạnh. Từ ấy học thuật lời xưa, sách Phật rộng mở, đem dấu vết tôn thừa để lại cho đời sau, với tới cội nguồn mà lưu lại hậu thế. Kính bái viết tựa .
Cảnh Hưng năm thứ 8 vào tuổi Đinh Mão (1747) tháng 5 ngày lành .
Tự pháp soạn thuật .
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
……..[3a1] thối chuyển.
Một phen khác lại gây quậy. Vào sâu canh hai, môn đồ Sư bỗng thấy một con ma đến, thân dài 2 trượng, da đen đứng ở trước sân, một lúc rồi biến mất. Đến canh ba thấy một con rắn lớn đến bò quanh mình Sư, sư không thể nhúc nhích, lúc ấy tổ sư thu mình lại, dời đến trước Phật chỉ nghĩ đến sức mạnh của thần chú. Một lúc nó bỗng biến mất. Lại một phen gây quậy khác. Ban ngày bỗng nhiên mây đen nổi lên che khắp trước sân, hoá làm phong ba dữ dội, gãy cây tróc nhà, cát bay đá chạy, một lúc mới hết. Tới ba tháng lại một phen gây quậy nữa. Ban đêm núi vắng bỗng nghe [3b1] tiếng mèo kêu ước hơn một vạn con, cùng một tiếng kêu gào. Tám tháng sau, lại một phen gây quậy. Đêm vắng canh khuya, tổ sư mật niệm ngồi ngay ngắn trước bàn Phật đèn đuốc sáng choang, rực rỡ như ban ngày. Bỗng thâý ma quân trai gái vây quanh bốn phía, có đứa cầm giáo cầm mác, có đứa dắt trâu dắt ngựa dắt voi, trong lòng bụng đau không thấy đèn sáng, mắt toàn thấy ma tinh, không thấy tượng Phật. Lúc ấy, tổ sư tận lực trì chú, bí mật nhiêù cách cũng không có linh nghiệm .
Bấy giờ, tổ sư lập chí Kim cang, nghĩ tới lửa Tam muội, quyết định đốt thân mình tiêu cả [4a1] thế giới, tiêu cả thân tâm, quả nhiên thấy nghiệm. Một lúc ma cảnh đều không thấy nữa. Lại thấy ánh sáng đêm vắng núi xanh không ai biết tới. Đến sáng hôm sau trong lúc tổ sư ngẫm nghĩ, bèn bỏ trở về làng cũ là xã Bình An thượng thuộc đội thợ đóng thuyền của phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam. Tổ bảo với các người xóm giềng cũ :”Cái chỗ cù lao đó, từ lúc được mở mang đến nay, vẫn không nhờ đâu để được khai hoá, đó là đất cung ma núi ác. Việc mở đạo cũng thật là khó”.
Tổ về lần lữa được một tuần, bỗng thấy một người Mán đến cầu thỉnh tổ. Tổ hỏi người đó :”Đêm đến mà cầu thỉnh ta thì nghi là có sự việc khoản khúc gì đây”[4b1]. Người Mán nói :”Một xóm làng của thần có 3 đền cũ ở núi Tiêm bút la. Một miếu là của thần Cao Các Đại Vương, một miếu là của Phục Ba đại tướng quân và một miếu là của thần Bô Bô Đại Vương. Hôm tổ sư trở về làng đến ngày thứ tư thì trong làng bỗng thấy 3 vị thần đều nhập lên người ngồi đồng cùng nói ra một lời, tự xưng là thần của 3 miếu, bàn tới việc ma tích cũ gây quậy đến mấy phen cùng hội đồng các ma quỷ yêu tinh làm phiền não và gia hại pháp sư. Ba chúng ta ngồi xem thắng bại thế nào, bỗng thâý pháp sư [5a1] biến hình biến tướng, không biết ở chỗ nào. Bọn ma rút mất. Chúng ta thấy pháp sư trai giới đạo hạnh đều trọn vẹn, nên chúng ta phục vị tôn sư kia, xin báo với làng xóm, cung nghinh tôn sư đến ở lại”.
Bấy giờ những người trong làng xóm thấy việc như vậy, bèn vào xin thưa thỉnh tôn sư duyên do việc trước. Lúc ấy, tổ sư nghĩ rằng :”Bọn ma e phục, sự việc đã hiển nhiên”. Cho nên sau đó tổ sư cùng đệ tử chuẩn bị thuyền buồm theo sóng lướt đến chỗ cũ ở yên. Được 8 năm mà không thấy trở ngại nào. Tổ sư thấy thần gọi quỷ giúp, cảm ứng tự nhiên, Phật pháp thịnh hành, danh thơm bủa khắp gần xa [5b1].
Một hôm, quan trấn thủ Quảng Nam là Thuần quận công có vợ bị bệnh đã lâu không khỏi, nên xin tổ sư đặc biệt đến cứu giúp. Bấy giờ tổ sư theo lời mời đến nhà, trì kinh đọc chú, bảy ngày bảy đêm phổ độ gia tiên cho đến oan khiên. Nhà quan kia bệnh hết tật giảm, yên ổn khoẻ mạnh. Vị quan có lòng tin cùng người trong nhà đều đến thọ giáo quy y, cộng được trên 50 người làm đệ tử. Từ đó, có đàn việt tín thí, khi xong việc chay nhà chùa, tín chủ đưa tổ sư trở về đến Cù lao. Đợi tới năm sau, xứ Quảng Nam có trưởng quan là tổng đốc thái giám [6a1] Hoa Lễ Hầu do trước bị bệnh đã lâu 3 năm, mắc chứng trùng cắn bụng đau, trăm thuốc chữa không khỏi, bèn từ chức trả quan mà về làng dưỡng già. Bấy giờ, trấn thủ xứ Quảng Nam là Thuần quận công có kết nghĩa cũ. Vị quan kia có đến hỏi, hai ông nói kể cho nhau về nguyên do việc bệnh. Thuần quận công trình bày cho Hoa Lễ Hầu việc vợ mình bị bệnh, không người nào cứu lành. Tôi thỉnh được nhà sư ở Cù lao, bèn gia trì kinh chú, được một tháng thì thân thể được lành yên. Cho nên xin trưởng quan lại đến chỗ ấy, thỉnh được tôn sư hành trì pháp lực, mới mong được yên chăng.
Hoa Lễ Hầu [6b1] tai nghe việc linh nghiệm, bèn tin là không dối, liền sai Thuần quận công đem quân 10 người, thuyền 1 chiếc đến chùa Cù lao, thỉnh bạch tổ sư đến dinh Hoa Lễ của Quảng Nam cứu bệnh. Sư đến chỉ một lần nhìn qua Hoa Lễ Hầu và hỏi người nguyên do của bệnh, tháng nào năm nào ngày nào. Hoa Lễ trả lời sư rằng :”Bệnh đã lâu 3 năm vô phương có thể cứu, xin sư thương xót, có phương gì để cứu vậy”. Tổ sư nói :”Trưởng quan quyền cao chức trọng sinh sát đã nhiều, chỉ nhờ sức sám hối lớn, mới mong được ổn yên mà lành bệnh”. Hoa Lễ nghe lời nhận việc thiết lập đàn tràng bảy ngày bảy đêm, phổ độ oan [7a1] khiên, dần dần bệnh khỏi. Đến một tháng tuần thì thân thể tráng kiện, cả dinh bà con lớn nhỏ đều xin nhận quy y được hơn 70 người .
Bấy giờ Hoa Lễ ra Thuận Hoá, vào phủ môn, chầu chúa. Lúc ấy đương nắm chính trị là Dũng quốc công, tục gọi là chúa Hiền, phán hỏi Hoa Lễ :”Thuốc nào thầy nào, ai mà có thể cứu được ngươi” Hoa Lễ phải tâu :”Thần may mắn được gặp minh sư ở núi Cù lao, tên là Minh Châu, xin mời về nhà, trì kinh đọc chú, phổ độ oan khiên, nhờ ơn Phật lực, nên mới được như cũ”. Bấy giờ Dũng quốc công xuống chỉ phán Hoa Lễ Hầu mau thỉnh nhà sư [7b1] lên tới kinh đô giúp nước .
Một hôm tổ sư vâng chỉ đến triều, vào phủ môn. Chúa Hiền phán hỏi:”Sơn tăng khổ hạnh có sức tu hành, đến chỗ nhà người bệnh lành tật giảm”. Dũng quốc công tức thì sai quan đón ra lập chùa trên núi Qui Kỉnh gọi là Thiền tịnh viện, để sư tại đó tụng kinh cầu chúc cho nhà vua, hộ trì mạch nước, giáo hoá thịnh hành. Có Quốc thái phu nhân quy y thọ giáo. Có ba công tử một tên Phước Mỹ, hai tên Hiệp Đức, ba tên Phước Tổ, ở nhà học đạo thờ Phật thanh tịnh. Từ đó bách quan đều đến quy y học đạo [8a1] Đồ chúng càng nhiều gồm được 79 quan, phó quan cả 100 ngoài hơn, lính trong lính ngoài quy y hơn 1200 người .
3.Ghi việc vâng dẫn đến gặp, Quảng chúa nghe lời sàm tấu, truyền Sư trở về chỗ cũ của bản quán.
Lúc ấy có thị nội giám quan là Gia quận công, nguyên quan ở xã Đoan Bái huyện Gia Định phủ Thuận An của Kinh Bắc, vâng mệnh đi đánh dẹp giặc, bại trận, bị quân Quảng Nam bắt được, đều nạp (làm tù binh) để được sống cùng ở Thuận Hoá, ban cho lương tháng ra vào trong phủ môn dạy học cho nội cung. Gia quận công thấy sư là chỗ dùng của nước [8b1] đạo đức tinh nghiêm, bèn phát tâm quy y thọ giáo học đạo, ngày đêm chuyên cần một lòng cầu pháp. Gia quận tuổi tác đã cao, lo đường sống chết, muốn được gần Sư để xin hỏi được con đường sáng mới dấn thân vào. Ngày lụn tháng qua, lần lữa kể đã lâu. Bấy giờ tha nhân ngoại đạo thấy sư việc làm tốt đẹp, bèn sinh lòng ghen ghét, ra mưu chống lại, đặt lời nói dối, đưa lời khải tâu lên quốc chúa vu cho sư là muốn trốn tránh.
Ngày kia nói rằng :”Tổ sư âm mưu cùng quen biết với Gia quận công, toa rập giúp đỡ Gia quận công trở về kinh đô của Trịnh. Lúc ấy, chúa Hiền thấy lời khải tâu sinh nghi, giao cho quan tra hỏi hư thực do [9a1] đâu. Được hơn 7 ngày, lời thẳng trúng lý, chẳng dối chẳng thật, chẳng giả chẳng chân. Chúa Hiền bảo :”Sự tình này chẳng nhờ lý mà thành công được” bèn xuống chỉ phán cho sư trở về Quảng Nam xa cách kinh đô 3 ngày. Bấy giờ sư ngẫm nghĩ, bèn sinh lòng trở về làng cũ mà ngày đêm vẫn không quên, hôm sớm vẫn tơ tưởng, nghĩ nhớ vết cũ của tổ tiên, bèn chuẩn bị một chiếc thuyền lớn, đồ đệ hơn 50 người, cùng một lòng vượt biển ra đi quyết qua vạn dặm nhắm tới miền sáng mà trở về. Lúc âý nhằm tiết tháng ba mùa Xuân năm Nhâm Tuất và tổ sư tuổi đã 53 .
Thuyền đến cầu Dinh, bèn đến yết kiến quan đốc xuất Yến [9b1] quận công. Quan binh nghinh tiếp. Ở được một tháng thì có lệnh xuống. Bấy giờ chúa Trịnh là Hoằng Tổ Dương Vương (Trịnh Tạc) đương nắm quyền ngự trị, sai quan vệ tiếp Đường quận công chỉnh trang thuyền tải 5 chiếc, đi đến trấn đồn giao phó cho quan đốc xuất lãnh tôn sư đưa về hầu chúa. Sư cùng đồ đệ lớn nhỏ hơn 50 người tức tốc đến kinh, kính cẩn tâu bày sự việc. Thánh thượng xuống chỉ ra lệnh giao cho Đường quận công đem tổ sư cùng đồ đệ trở về doanh lấy làm nhà ở, ngày ngày sai quan tra hỏi cốt rõ mối manh hai nước đánh nhau. Một mặt Phụng sai quan là thị nội giám Nhượng quận công, Tài quận công, [10a1] tổng Giao, tổng Lãi, lại có Thượng thư hai quan viên, một là thượng Vĩnh, hai là thượng Lê Hy, ngày ngày tra vấn, rồi trở về phủ đợi lệnh. Một tháng chỉ tra thấy sự việc quả là đúng đắn rõ ràng. Sư chuẩn bị lời tâu lên, nói mình nguyên quán xã Áng Độ, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An.
Phụng sai quan bắt người bản quán đến nhận tôn sư kia đây có thật không. Người làng bảo đúng, dân làng bày tỏ lai lịch kính cẩn tâu lên sự việc, đó là dấu vết tổ tiên của tôn sư đúng là người làng. Chúa nghe bèn triệu đến hỏi, sư dâng sách trình bày mưu lược. Lúc ấy vua trời xuống chỉ, ra lệnh ban thưởng, gia quan [10b1] bổ chức, sắc phong tôn sư chức Vu áng. Hai người đệ tử đi theo, một giữ chức Ty sứ, một giữ chức Khố sứ, lại thưởng thêm tiền xưa 300 quan, lại ban áo mão các thứ cho các môn nhân, được tin tưởng không còn hồ nghi nữa, lại cấp cho lương tháng khẩu phần tôn sư cả năm lúa là 24 lu, tiền là 36 quan, vải trắng một tấm, phiến lịch một phần. Môn đồ mỗi người lúa 12 lu, tiền 12 quan và vải, quạt, lịch v.v…. đã thành tiền lệ. Một hôm, chúa xuống chỉ phán cho tôn sư dâng sách Quảng Nam Thuận Hóa sơn thủy lộ trình. [11a1] Tôn sư vâng lệnh viết vẽ thì trong 21 ngày đã hoàn thành. Tôn sư dâng sách văn có thắng lợi trọn vẹn. Chúa Trịnh thưởng cho tiền xưa 20 quan. Đến khoảng tháng 6 đức Hoàng tổ chầu trời. Đức Chiêu tổ lên nắm quyền cai trị, xuống chỉ ra lệnh dời chỗ ở, đưa tôn sư đến trấn doãn, giao cho ở nhà thị nội giám tả tượng quan. Được 8 tháng tuần, lại trở về xứ Sơn nam thuộc quan trấn thủ thiếu bảo Tước quận công. Bấy giờ tôn sư đã 55 tuổi.
4. Ghi về việc ra ngoại cảnh, gần Trấn sở dựng viện Thiền tịnh.
[11b1] Từ khi trở về với quan trấn thủ dinh Hiến, bèn được bao đo đất thổ trạch, và ban cho được hơn 3 mẫu để dựng lập am đường 5 gian 2 chái, để thờ Phật tụng kinh, gia trì đảnh lễ, tọa thiền nhập định. Hơn 18 năm tổ sư đã thực hành đàn Chuẩn Đề hôm sớm không ngớt, mỗi ngày 3 thời. Lại chú giải các kinh bằng phương ngôn quốc ngữ:
– Giải Pháp hoa kinh 1 bộ
– Giải Kim cang kinh lý nghĩa 2 đạo
– Giải Sa di giới luật 1 quyển
– Giải Phật tổ tam kinh 3 quyển
– Giải Di Đà kinh 1 quyển
– Giải Vô lượng thọ kinh 1 quyển [12a1]
– Giải Địa Tạng kinh 3 quyển
– Giải Tâm Kinh Đại Biên 1 quyển
– Giải Tâm kinh ngũ chỉ 1 quyển
– Giải Tâm châu nhất quán 1 quyển
– Giải Chân tâm trực thuyết 1 quyển
– Giải Pháp bảo đàn kinh 6 quyển
– Giải Phổ khuyến tu hành 1 quyển
– Giải Bảng điều 1 thiên
– Soạn Cơ duyên vấn đáp tinh giải
– Soạn Lý sự dung thông 1 quyển
– Soạn Quán vô lượng thọ kinh quốc ngữ
– Soạn Cúng Phật 3 khoa
(cát, hung, tiểu)
– Soạn Cúng Dược Sư 1 khoa
– Soạn Cúng Cửu phẩm 1 khoa
[12b1] Các sách trên đây thịnh hành ở đời. Tổ sư trải qua năm tháng vào thì tọa thiền, ra thì giải kinh, trong 12 giờ, mỗi giờ đều tinh tấn.
5. Ghi về việc ra trú trì và khai sáng chùa Nguyệt đường.
Bấy giờ, tổ sư tuổi đã 70, ấy là trong năm Canh thìn lúc vua Lê Chính Hòa nắm quyền cai trị. Sư xem việc đời vô thường, rõ biết căn thân không bền, mỗi lo nghĩ chỉ một lòng dựng lập tam bảo, nhóm họp hai nhóm xuất gia và tại gia để lại giống tốt cho đời sau, đèn đèn nối nhau. Bỗng một hôm, nhân gặp [13a1] cung tần thị nội của cựu chính phủ là Nguyễn Thị Ngọc Hân đến bạch với tổ sư, xin tổ sư đến trụ trì chùa Nguyệt Đường đề trùng tu khai sáng chùa Phật trang nghiêm. Đức bà hội chủ nội cung ra tiền của ba dật, lại khuyên quan trấn thủ Tước quận công hỷ xả tiền xưa 10 quan, hứa cho tổ sư lên chùa Nguyệt Đường, ngày đêm trú trì, vân tập thiền đồ xa gần cùng đến.
Những người xuất gia thọ giáo làm pháp tự được 70 tên thuộc hàng chữ Chân, chay trường xuống tóc, hiểu rõ kinh Phật. Còn hàng chữ Chân mà tóc dài thì nhiều không thể kể hết. Hàng thiện tín chữ Như thì số kể khôn xiết. Do thế [13b1] bèn trùng hưng thượng điện 3 gian hai chái, 4 vế 8 vần, trong có 9 chín pho tượng Phật tam thế toàn bằng vàng ròng, lại có 12 tượng, 4 thánh và 12 vị hầu, lại có 4 toà Tứ Đại Thiên Vương, mỗi toà 3 tượng toàn bằng gỗ có phủ nhũ tương. Lại có 2 tượng Thiên chúa toàn bằng gỗ thân vàng.
Lại dựng tiền đường hai toà, mỗi toà 5 gian. Bên trái có một tượng Địa Tạng bằng gỗ thân vàng. Bên phải có tượng đồng Di Lặc phủ vàng. Lại có một tượng Tề Thiên Đại Thánh bằng gỗ phủ nhũ tướng. Bên ngoài hai bên phải trái có hai tượng Hộ pháp bằng gỗ.
Lại tạo hậu đường [14a1] 2 toà, mỗi toà 5 gian. Bên trong có 18 tượng La hán bằng gỗ phủ nhũ tương. Ở giữa có tượng Phật mẫu Chuẩn Đề 3 mắt 18 tay bằng gỗ, thân vàng. Lại có 2 pho tượng thánh tăng và thổ địa. Lại có 6 tượng lục phủ thần vương bằng gỗ, toàn phủ nhũ tương 5 sắc. Tả vu hữu lang nguy nga bằng gạch đá, mỗi bên có 9 gian.
Trước bên trái có hai toà Dược Sư Nghi Đàm, bên trong có giếng trời, bên ngoài cho chạy 8 vần, trên treo tam thiên hoá Phật phạn tướng mặt vàng, ở giữa có tượng thất Phật màu đồng vàng, hai bên là 10 vị đại bồ tát và 12 Dược xoa mỗi mỗi [14b1] đều có thân bằng đồng, sắc màu vàng trang nghiêm.
Trước bên phải có 3 toà Cửu phẩm liên đài, tầng trên có lan can kép, tầng dưới cho chạy 8 vần, khúc giữa nổi hiện hoa sen 9 phẩm, phân làm 9 tầng. Mỗi tầng 8 mạch. Mỗi mạch 3 tượng. Trên, lọng báo rũ xuống. Đất mọc sen vàng. Hai bên có vẽ cảnh Tây phương, vô số các tượng thánh. Bốn góc là 4 thần vương đại hộ pháp, thân cao 8 thước, uy nghi trang nghiêm tối thắng.
Phía sau có tượng đồng Địa Tạng, lại có 3 pho tượng gỗ vàng của tam tổ. Lại có pho độc tôn Tam Giới Thiên Chúa toàn bằng vàng. Lại [15a1] có tượng Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương, thân vàng, mặt ngọc. Lại có hai ban hậu Phật tượng gỗ và bài vị bằng gỗ.
Bên phải phía sau lại có Đại bi đàn, một nhà, 5 gian, hai chái. Bên trong có tượng Phật dung nhan bằng vàng có 42 tay làm thành đài sen đẹp.
Lại phía đông bắc là trù oản một nhà 8 vầng 3 gian. Phía tây nam là tàng kinh một nhà 3 gian 8 vầng. Phòng tăng thì vây quanh chạy khắp các nhà bảy tòa. Lại có chính ngự một nhà 3 gian bằng gạch ngói.
Bên trong chùa bốn phía đều bằng vách gạch, có lan can cũng xây bằng gạch. Bên ngoài chùa bốn góc thành viên nối nhau, toàn bằng gạch bát xếp. Lại có nghi môn [15b1], hai bên phải trái hai tòa. Mỗi toà 3 gian trùng điệp hai lầu, để làm gác khánh gác mõ.
Lại có tổ đường hai bên, mỗi bên hai toà. Mỗi tòa 3 gian 8 vần, trùng diềm. Trong có khám thờ, giường cùng tượng tổ hai pho. Lại có bảo tháp tổ sư bên trái, cao 21 thước. Lại có bảo tháp tôn sư bên phải, cao 25 thước. Cả hai tháp đều có sư tử bằng đá hai bên.
Lại trước chùa có tam quan ngoài đường một tòa, trên dưới lầu giác 3 gian 8 vầng, toàn dùng gạch bát. Núi bên trái là gác chuông. Tầng trên tro một [16a1] hồng chung rộng 2 thước. Tầng dưới treo một đại hồng chung rộng khoảng 3 thước 5 tấc. Núi bên phải đối lại là lầu trống. Bên trong đặt một trống lớn, bề mặt rộng 3 thước. Thềm dưới lót gạch bằng phẳng.
Trước chùa bao quanh là một tường biếc có màu hoa. Bên phải và bên trái là những con đường dùng toàn gạch bát. Vườn cảnh bên trong và ngoài chùa đều trồng cây hoa quả tươi sáng, trước sau hàng hàng bày ra la liệt, trương tàng lá sum suê.
Lúc ấy, bỗng một hôm vua Lê Bảo Thái thành khẩn mời tổ lên điện vua lập đàn cầu thai 3 ngày đêm. Tổ sư than rằng : “Thái công 80 tuổi mới gặp được quan vương”. Bấy giờ tổ đã 80 [18b1]. Vua hỏi đạo nói : “Trẫm nghe sư già là một vị thầy từ xa mến đức mà tới. Nguyện xin nói lời pháp âm khiến trẫm liễu ngộ”. Tổ sư tâu rằng : “Thần nguyện xin bệ hạ hết lòng lắng nghe bài kệ rằng :
Về lắng nghe mình mỗi xét xem
Thẩm tra suy nghĩ, khéo trông thêm
Chớ tìm tri thức trong mơ mộng
Sẽ thấy bóng thầy trên mặt mình”
Vua Lê lại hỏi tổ: “Như thế nào là ý Phật và ý tổ”. Sư đáp :
“Nhạn qua trời rộng
Ảnh chìm nước lạnh
Nhạn đâu có ý để dấu
Nước đâu có lòng [17a1] giữ ảnh”.
Nhà vua khen tổ sư: “Tôn lão sáng suốt thật”. Lại hỏi tổ: “Phật đối chúng sanh có ân đức gì đến nỗi phải bỏ vua bỏ cha, bỏ vợ bỏ con mà thờ Phật làm thầy”. Tổ đáp: “Phật đối với chúng sanh ơn quá trời đất, sáng vượt trời trăng, đức hơn cha mẹ, nghĩa hơn vua tôi”. Vua nói: “Trời đất nhật nguyệt có đầy đủ công của tạo hóa, cha mẹ vua tôi có đầy đủ đức của sinh thành. Sao lại bảo Phật vượt quá điều đó ư?”. Tổ tâu đáp : “Trời chỉ có thể che, mà không thể chở. Đất chỉ có thể chở, mà không thể che. Mặt trời chỉ chiếu sáng ban ngày, mà không chiếu sáng [17b1] ban đêm. Mặt trăng thì sáng ban đêm, mà tối ban ngày. Cha chỉ có thể sinh, mà không thể dưỡng. Mẹ chỉ có thể dưỡng mà không thể sinh. Vua có đạo thì tôi trung. Vua vô đạo thì tôi nịnh.
Đem điều đó mà suy ra thì đức của trời đất nhật nguyệt, cha mẹ vua tôi là không trọn vẹn. Đức của Phật đối với chúng sanh thì không thế. Luận về che thì bốn loài đều được che khắp. Luận về chở thì 6 đường đều chở hết. Luận về sáng thì chiếu rọi 10 phương. Luận về soi thì sáng khắp 3 cõi. Luận về từ thì vớt hết biển khổ. Luận về bi thì cứu hết u minh. Luận về thánh thì vua trong đám thánh. Luận về thần thì lục thông tự tại. Cho nên người còn người mất đều được cứu hết [18a1], kẻ sang kẻ hèn đều được dắt lên. Chỉ xin bệ hạ lưu tâm kính ngưỡng”. Vua vui nói :”Ơn Phật như thế thì chẳng phải thầy không ai có thể nói được. Trẫm nguyện đem cả cuộc đời này kính ngưỡng”.
Bấy giờ, tổ sư đã đến 87 tuổi, ấy là vào tháng 6 năm Giáp ngọ, may mắn gặp đức tiên vương của thánh thượng đến chơi ở chùa mình, phán hỏi tổ sư rằng :”Nhân địa do đâu”. Quan phụng sai là Đức Khánh Công đến hỏi. Tổ đáp :”Rõ thấu chúa thượng rồi”. Vả lại tổ sư đã trình bày lai lịch và sự việc trước sau của mình, lại vâng hầu 3 triều [ba triều: là chỉ ba triều đại của Trịnh Tạc (1653-1682), Trịnh Căn (1682-1709) và Trịnh Cương (1709-1729), chứ không phải 3 triều của nhà Lê, bởi vì Hương Hải chỉ sống dưới hai triều của vua Lê mà thôi là Lê Hy Tông (1676-1704) và Lê Dụ Tông (1705-1728)] ăn lộc quân vương ngày đã lâu. Thánh thượng hoan hỷ ban cúng trước Phật tiền xưa [18b1] 1000 quan, ngự đề thơ rằng :
“Danh lam từng trải đã hay danh
Trình độ này âu hợp chốn trình
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp
Kinh lâu rỡ rỡ diễn chân kinh
Công nhiều nhờ có công vô lượng
Thế thuận vậy nên thế hữu tình
Ngăn tục mụa hề mùi tục lụy
Lòng thiền tua kín chốn thiền khuynh”
Bỗng một hôm quan trấn thủ Tiền Hòa quân doanh quốc lão trí sĩ Ứng quận công đến tham quan Nguyệt Đường, làm bài thơ vịnh rằng :
[19a1] “Hoa xuân người ngắm tắm thiều dương
Ngày rảnh giai nhân viếng Nguyệt Đường
Tùng cỗi trước sân trương lọng thúy
Sen non ngoài cửa ngát mùi hương
Lòng băng trì ấn truyền kinh lão
Mặt sắt men tường ngắm giáo lương
Bao thứ hữu tình tuôn đổ bút
Thơ huyền thưởng thức một vài trương”
Bấy giờ quan trấn thủ thường đến hỏi đạo. Tổ sư lại có bài thơ ngợi khen tướng quan :
“Vua sáng trở về giúp vận nên
Tôn công thăm hỏi tuổi mừng thêm
Kinh luân đức hạnh tài dùng đủ
Lễ nghĩa văn chương ý đáp đền
[19b1] Ngoài trừ đạo tặc quân dân thích
Trong dưỡng trinh liên sĩ tốt bền
Quyền trấn cõi nam tên bốn bể
Khuông phò đất nước sướng muôn bên”
Hôm sau, quan quốc lão xin sư làm chay phổ độ bảy ngày đêm. Mỗi ngày trưởng quan chính minh đến dâng hương ba lần để tỏ lòng thành thắp hương dâng cúng. Một hôm rảnh, trưởng quan lại đến Nguyệt Đường gọi 3 thầy người đạo Hoa Lang cùng đến chùa Nguyệt Đường đối đàm giảng đạo với tổ sư, để xem thắng bại thế nào. Ba thầy đạo Hoa Lang, một tên Tài Giam hai tên Tài Hựu, và ba tên [20a1] Tài Chi. Trưởng quan hỏi Đạo một câu, hỏi Thích một câu. Ba thầy Đạo 3 lần im lặng. Chỉ có một mình Thích ngôn tự chẳng dứt. Trưởng quan nói : “Đạo không bằng Thích Hoa lang dối trá nói lời dụ người khiến nghiêng nhân thế. Đó gọi là đạo tà, chẳng biết nghĩa lý”. Ông lại nói : “Thích nói thông chí lý, có sự có tích, pháp bảo vô biên. Từ đó biết Đạo là ngụy chẳng thực chân”. Bèn liền trở về tâu tới Thánh thượng cửu trùng. Trải 8 tháng, Phụng sai quan đuổi đạo Hoa lang trở về nước họ, không được ở chỗ Hiến trấn.
Bấy giờ, Phật giáo đồ rất thịnh, chùa mỗi [20b1] ngày một nổi lên. Một hôm, trời xuân, tổ sư rảnh rang ngâm thơ :
“Ba dương mở thái chuyển đất trời
Chín chục thiều quang sắc sắc tươi
Đêm lặng gió thanh đưa móc ngọc
Ngày trong khí mát rợp mây lơi.
Non cao cây rú xinh xinh lạ
Đấy phẳng vường hoa ngát ngát hơi
Chốn chốn nghênh lành ca vạn thọ
Người người vui sướng vịnh xuân đời”
6. Ghi về việc khai thị ngộ nhập duyên lành truyền thọ ấn chứng.
Một hôm, tổ sư thị chúng : “Từ ngày tổ đến ở chùa Nguyệt Đường, lập viện Thiền [21a1] tịnh, đệ tử 10 phương cùng đến họp lại như mây, học đạo qui y v.v… Các người tên ghi khai bày mỗi tích :
Thượng tọa đệ tử quốc ban Viên Thông phương trượng hòa thượng pháp tự thiền sư Chân Lý Hiển Mật (cùng ở chùa Nguyệt Đường, hầu hạ tổ ngày đêm).
Thiền sư tự pháp Chân Tạng Mật Hạnh.
Thiền sư tự pháp Chân Chiếu Hoa Mỹ.
Thiền sư tự pháp Chân Tông Quảng Trí.
Thiền sư tự pháp Chân Quí Phổ Ứng.
Thiền sư tự pháp Chân Truyền Quang Tán.
Thiền sư tự pháp Chân Tịch Khổ Hạnh.
[21b1] Thiền sư tự pháp Chân Thành Bồ đề.
Tự pháp Chân Thường.
Tự pháp Chân Cảnh.
Tự pháp Chân Thước.
Tự pháp Chân Ý.
Tự pháp Chân Thị.
Tự pháp Chân Thuần.
Tự pháp Chân Đẳng.
Tự pháp Chân Bình.
Tự pháp Chân Pháp.
Tự pháp Chân Quảng.
Tự pháp Chân Trí.
Tự pháp Chân Bảo.
Tự pháp Chân Thường.
Tự pháp Chân Đông.
Tự pháp Chân Dung.
Tự pháp Chân Quả.
Tự pháp Chân Viên.
Tự pháp Chân Kinh.
Tự pháp Chân Tình.
Tự pháp Chân Quang.
Hàng chữ Chân, người đắc pháp có 70 tên. Trên đây chỉ lược lấy những người lớn, là những pháp tử nối lửa truyền đèn.
Lại tính [22a1] hàng chữ Như là những cháu thiền nối tiếp sau :
Hương hoả kế tự Tăng lục ty tăng thống chính tông Hoà thượng, pháp tự Như Nguyệt hiệu Hoa Quang (trú trì bản tự).
Sơn tăng pháp tự Như Tâm.
Tăng phó pháp tự Như Túc.
Pháp tự Như Khoảng.
Tăng phó pháp tự Như Nhật (cúng một bảng gỗ).
Nội Đàm pháp tự Như Đài (cúng một bảng gỗ).
Pháp tự Như bảo
Tăng chính pháp tự Như Sơn.
Tăng phó pháp tự Như Thừa.
Pháp tự Như Công.
Tăng phó pháp tự Như Thuyên.
Hữu công pháp tự Như Huyền.
Pháp tự Như Nhẫn.
Tăng thống pháp tự Như Toàn.
Hữu công pháp tự Như Biền.
Pháp tự Như Đề.
[22b1] Tăng chính pháp tự Như Viên (cúng một bảng gỗ).
Pháp tự Như Kiên (cúng một bảng gỗ).
Pháp tự Như Phái.
Pháp tự Như Mật (cúng một bảng gỗ).
Tăng phó pháp tự Như Cảnh.
Pháp tự Như Hải.
Pháp tự Như Khanh.
Pháp tự Như Nghiệm (cúng một bảng gỗ).
Trên đây là hàng chữ Như gồm hơn 200 người, nhưng đây chỉ lược lấy 24 người, hoặc có công với chùa, hoặc cósách mệnh của triều đình.
Đến hàng chắt thiền chính phái phụng hầu nội đàn có :
Tăng thống tên chữ Tính Thanh (cúng 3 bảng gỗ).
Nội đàn tên chữ Tính Liễn.
Tên chữ Tính Kế.
Đạm Hạnh tên chữ Tính Khả (cúng một bảng gỗ).
Nội đàn tên chữ Tính Lâm.
Tên chữ Tính Duệ (cúng tiền 2 quan).
Tên chữ Tính Thước.
Nội đàn tên chữ Tính Tường.
Tên chữ Tính mẫn.
[23a1] Tên chữ Tính Nhu.
Tính Đỉnh.
Tính Bạch.
Tính Ánh.
Tính Trác.
Tên chữ Tính Đức (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Trí (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Lăng (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Năng (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Tiếp (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Phụng (cúng một quan).
Tăng phó tên chữ Tính Xán (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Tính Tuyên (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Như Liêu (cúng một tờ).
Tăng chính tên chữ Tính Hằng (cúng một bảng gỗ).
Tăng phó tên chữ Hải Bồi (cúng một bảng gỗ).
Tăng phó tên chữ Hải Triều (cúng một bảng gỗ).
Huyền Thiện tham vấn tên chữ Tính Không (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Hải Đường (cúng một tờ).
Nguyễn Nhu tên chữ Hải Nhã (cúng một tờ).
Hải Đồng (cúng một bảng gỗ).
Tên chữ Như Khôi (cúng một bảng gỗ).
Liễu Tiên pháp tự Như Hạnh (cúng một tờ).
Nội đàn tên chữ cũ Tính Viên (cúng một tờ).
Tên chữ Hải Diên (cúng một bảng gỗ).
Nội đàn tên chữ Hải Lịch, tên chữ Hải Khoát (cúng một bảng gỗ).
Phụng thị hạ đàn tên chữ Hải Liêm, tên chữ Hải Trung (cúng một bảng gỗ).
[23b1] Còn như hàng chữ Tính, thì cành lá rất nhiều, không biết hết số lượng. Đến hàng chữ Hải nối đèn từ Hải Đạm ở Nguyệt Đường trở xuống đến hàng chữ Tịch Chiếu Phổ Thông, thì số lượng kể không hết. Lại có ni cô từ nhỏ vào đạo, giới hạnh tinh nghiêm hơn 30 tên. Ưu bà tắc, ưu bà di, thiện nam tín nữ, ngàn con muôn cháu, cùng qui về mạch đạo.
Một hôm, tổ sư thuật kệ thị chúng bằng bài kệ Ngộ liễu :
Hiểu không, không hiểu, không không hiểu,
Hiểu hiểu, không không, không chẳng không,
Muốn biết chẳng không tin tức tốt,
Lang bang chỉ ở hiên này xong (5)
Lại có kệ :
Sư tử trong hang sư tử,
Chiên đàn trong núi chiên đàn,
[24a1] Một mình nhờ có đất trời rộng,
Muôn việc không lo ngày tháng rong (6)
Lại có kệ :
Rồng khi được nước, thêm thanh thế,
Cọp lúc gặp non, lớn vuốt nanh,
Người về nước lớn, hay rằng quí,
Nước đến Tiêu tương, một dạng thanh (7)
Lại có kệ :
Chầu bắc trên trời hết thảy sao,
Tuôn đông cõi thế mọi sông rào,
Lông rùa cạo sạch lưng trâu sắt,
Sừng thỏ cách luôn eo gái xao.
[24b1] Dạ xoa la sát vừa đầu cúi,
Ngục tốt ngưu đầu lại múa sào (8)
Lại có kệ :
Hoặc sai hoặc đúng, người đâu biết,
Làm ngược làm xuôi, trời chẳng lần,
Gia gia người hát cách trong núi,
Phách tám, sáo hồ nhận tưởng lầm (9)
Thượng tọa thị chúng rằng : “Có một người một đời làm thiện. Có một người một đời làm ác. Người làm thiện một hôm phạm phải giới không cho mà lấy. Người tạo ác một niệm hiểu rõ tự tâm. Người làm lành phạm giới không cho mà lấy, liền bị gọi [25a1] là giặc. Người làm ác hiểu rõ tự tâm liền được gọi là Phật. Hai người cùng đến chốn Vân môn, bám một người nào là bám thiện khước ác, bám người nào là bám giặc mà chối Phật. Bám người ác mà khước người thiện ấy là sợ ác mà khi thiện. Nếu cùng bám cả hai người thì Phật và giặc không phân biệt được. Nếu cả hai người đều không thiện, thì thiện ác không rõ. Nếu quyết định chỉ Phật là người ác thì mang lấy tội báng Phật, vào địa ngục nhanh chóng như tên bay. Nếu chỉ (giặc) là người thiện, thì chưa có người thiện mà đã có người làm giặc” (V1).
Lại có kệ :
[25b1] Vợ mới cưỡi lừa bố chồng dắt,
Bước lần theo bước chẳng cầm roi,
Về đến nhà sang người chẳng biết,
Từ nay cửa trước biếng ra chơi (10)
Lại có tụng :
Phu tử đâu biết chữ,
Đạt Ma chẳng hiểu thiền,
Huyền Sa không lời ấy,
[Huyền Sa : tức thiền sư Huyền Sa Sư Bị (835-908), đệ tử của Phù Dung Linh Huấn thuộc phái thiền Thanh Nguyên Hạnh Tư]
Rất đừng nhảm nhí truyền (11)
Lại có tụng :
Tìm đâu nên dò vết,
Học đạo phỏng vô tâm.
[26a1] Vết còn, trâu hẳn có,
Vô tâm, đạo dễ tìm (12)
Lại có tụng :
Sinh từ đâu mà tới,
Đến đâu khi chết rồi,
Biết được nơi tới đến,
Học đạo xứng danh người (13)
Một hôm, tổ rảnh rang ngâm chơi hai bài kệ, để dặn dò người tại gia. Bài kệ rằng :
Phố thành chơi dạo, ở chùa chiền
Ứng biến tùy cơ mỗi tự nhiên.
Cửa đón trăng vào thiền chõng ngọt
Thông reo gió thổi khách giấc yên
Lâu đài sắc [26b1] sáng càng thêm sáng
Chuông trống tiếng đưa tiếng mỗi truyền
Ba giáo xưa nay cùng một thể
Theo thì sao lẽ có nghiêng bên (14)
Lại có kệ :
Bát nhã rừng thường thượng sĩ thăm
Ở đời chẳng nhuốm, rõ thiền tâm
Liêm khê, Trình thị thông cao kiến
Tô tử, Hàn văn hiểu diệu âm.
Muôn trạng bao la xa dễ hiểu
Một bầu tạo hóa kín khôn tìm.
Nguồn nho bát ngát lên thêm rộng
Biển Phật mênh mông xuống sâu lần (15)
[27a1] Lại một hôm, nhân đàm thị chúng : “Muốn tìm thấy Phật, thì chỉ cần biết chúng sinh. Chỉ vì chúng sinh lầm Phật, chứ không phải Phật lầm chúng sinh. Tính mình nếu hiểu thì chúng sinh là Phật. tính mình nếu lầm thì Phật là chúng sinh. Tính mình bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tính mình vạy tà, thì Phật là chúng sinh. Tâm ta tự có Phật. Phật mình là chân Phật. Tự mình nếu không tâm Phật thì chỗ nào tìm được chân Phật. Cho nên kinh dạy tâm sinh mọi thứ pháp sinh, tâm diệt thì mọi pháp diệt. Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là bồ đề [27b1]. Niệm trước mà lầm tức là phàm phu, niệm sau mà ngộ tức là ngộ. Niệm trước mà mắc vào cảnh tức là phiền não. Niệm sau mà rời cảnh tức là bồ đề” (V2)
Lại nói : “Tự thể của chân tâm, chẳng phải chúng ta có thể nói được. Nó trong như hư không vô tận. Nó sáng như gương sạch tròn soi. Chê khen chẳng tới, nghĩa lý khó thông. Không thể đem chỗ hữu vô mà vét hết dấu u huyền của nó. Không thể đem lời nói trí thức mà bàn thể nhiệm mầu của nó. Chỉ có người đi vào nó, chỉ tại lòng mình biết, Như giã muôn thứ để làm hương, đốt một hạt bụi là đã đủ mọi mùi thơm. Như vào [28a1] biển lớn mà tắm gội, vúc một hạt nhỏ là đã dùng hết cả trăm sông” (V3)
Lại nói : “Nguồn chân trong vắng. Biển giác trong thanh. Dứt mọi mối danh tướng, chẳng dấu vết năng sở. Tối sơ không hiểu, bỗng dấy động tâm. Nhân sáng mới có soi, theo soi mới dựng nên đối tượng. Cho nên nói : chúng sinh như gương hiện bóng, chóng dấy căn thân, từ đó mất chân thất tính. Chấp tướng theo danh, chứa nhóm tịnh trần, kết nối sóng thức, khóa chân giác mà mơ mộng đêm trường, chìm mê trong 3 cõi, bịt mắt trí mà quạng quờ đường tối, lăn lóc ở 9 nơi. Hướng vào cảnh chẳng dời [28b1] mà luống chịu luân hồi, mắc trong phép chẳng thoát mà tự chịu cột trói. Như tằm xuân làm kén, như đóm thu lao đèn. Đem tơ vọng tưởng của hai kiến mà buộc lấy nghiệp chất của khổ thân, dùng cánh tham ái của vô minh mà vác lấy xe lửa của sinh tử. Lại có đám gốc tà giống ngoại, tiểu trí quyền cơ, chẳng hiểu bình nguyên của sinh tử, chẳng biết gốc thấy của ngã nhân, chỉ muốn ép lời bài báng, phá tướng bẻ đời.
Tuy bảo rằng nếm mùi tịnh, lặng hiểu không, mà chẳng hay mình vùi chân lý, cự giác ngộ. Giống như kẻ chẳng rõ được nét đỏ xanh trong mắt mình, mà chỉ muốn dập tắt ánh kép trên cây đèn, chẳng [29a1] rõ hết thân huyễn của thức nội mà luống tránh bóng giả của mặt trời. Đó là mệt mình nhọc trí, mất sức tốn công, chẳng khác đổ nước giúp băng, chụm củi thêm lửa. Chúng há biết ánh kép là tại màu xanh, bóng giả là theo thân chúng, trừ mắt bệnh thì ánh kép tự tiêu, bỏ thân huyễn thì bóng giả sẽ diệt. Nếu hay soi rọi về mình, bỏ cảnh quán tâm thì mắt Phật sáng rõ mà bóng nghiệp tiêu trơn, pháp thân hiện ra mà vết trần dứt tuyệt. Đem kiếm trí của tự giác mà mở lấy ngọc tâm bị trói chặt ở trong, dùng gươm tuệ của một niệm mà chặt đứt lưới kiến tại cõi đời tạm bợ. Đấy thực là ý chỉ của việc thấu tới [29b1] tâm mình, và lời nói của việc với đến thức lý”. (V4)
Lại nói : “Trí năng chiếu vốn không. Cảnh sở duyên cũng vắng. Vắng mà chẳng vắng, bởi người không thể vắng. Chiếu mà không chiếu bởi cảnh không chỗ chiếu. Cảnh và trí đều vắng thì tâm ý an nhiên. Đó mới là đường lối cốt yếu của việc trở về nguồn. (V5)
Lại nói : “vắng lặng sinh vô ký. Tỉnh táo sinh loạn tưởng. Vắng lặng tuy có thể trị loạn tưởng nhưng lại sinh ra vô ký. Tỉnh táo tuy có thể trị được vô ký nhưng lại sinh ra loạn tưởng. Cho nên nói : Tỉnh tỉnh, vắng vắng mà vô ký thì chẳng phải là vắng vắng. Vắng vắng, [30a1] tỉnh tỉnh mà loạn tưởng thì chẳng phải là tỉnh tỉnh”. (V6)
Lại nói : “Người phàm phần nhiều vì sự mà ngại lý, vì cảnh mà ngại tâm, thường muốn trốn cảnh để an tâm, bỏ sự mà giữ lý. Họ chẳng biết đó là tâm ngại cảnh, lý ngại sự. Chỉ khi khiến cho tâm không thì cảnh tự nó không, lý lặng thì sự tự nó lặng, chớ làm đảo ngược tự tâm mình”. (V7)
Lại nói :
Thân dối đến gương soi bóng,
Bóng cùng thân dối chẳng sai.
Chỉ muốn bỏ bóng giữ dối,
Thân giả vốn nó chẳng hay.
Thân vốn cùng bóng chẳng khác,
Không được một có một không,
Nếu muốn giữ một bỏ một,
[30b1] Mãi xa chân lý muôn trùng.
Nếu lạighét phàmyêu thánh,
Biển cả sanh tử nổi trôi.
Phiền não do tâm mà có,
Không tâm phiền não đâu nơi.
Chẳng nhập phân biệt tướng thủ,
Tự nhiên đắc đạo phút giây. (16)
Lại nói :
Biết được báu trong áo,
Vô minh say tỉnh liền,
Trăm xác tuy tan nát,
Một vật mãi giữ linh.
Biết cảnh chẳng phải thể,
Thần châu đâu định hình,
Ngộ thì ba thân Phật,
Mê si muôn quyển kinh.
Ở tâm, tâm đo được,
Qua tay, tay khôn minh.
Võng tượng trước trời đất,
Huyền tuyền tự mông mênh.
Nguyên sạch đâu cần lọc,
Vốn cứng [31a1] chẳng trui rèn.
Trời mai sáng bàng bạc,
Sao sớm ánh lung linh.
Sáng lành tuôn chẳng mất,
Chân khí đụng lại sinh.
Hang hóc soi chiếu khắp,
Cõi pháp bao sáng tinh,
Hiểu lời chẳng nhờ lưỡi,
Nói được đâu phải thanh.
Hết bờ càng rộng rãi,
Không ngăn thảy trống bình.
Thấy trăng đâu xem ngón,
Về nhà hết hỏi đàng.
Biết tâm, tâm là Phật,
Phật đâu lại có thành. (17)
Lại nói : “Pháp thân vô tướng không thể đem âm thanh mà tìm. Đạo mầu không lời, không thể đem văn tự mà hiểu. Giả như vượt Phật siêu tổ, cũng còn rơi vào bậc cấp. [31b1] Dẫu cho nói diệu bàn huyền, rốt cuộc cũng mắc vào răng lưỡi. Chỉ cần phải công huân không phạm, bóng vết chẳng lưu, cây khô hang lạnh, lại không thấm chút ấm tươi. Người huyễn ngựa cây, tình thức đều trống vắng, mới hay thọc tay vào chợ, thân chuyển các loài. Há chẳng từng nói :
Vô lậu nước kia lưu chẳng ở
Lại tìm ổ khói cát lạnh nằm”. (V8)
Lại nói : “Nếu đem biết mà biết sự vắng lặng, thì đó chẳng phải là cái biết vô duyên, giống như tay cầm cây như ý thì chẳng phải tay không có cây như ý. Nếu đem cái tự biết mà biết, thì cũng chẳng phải cái biết vô duyên, giống như tay tự nắm lại thì chẳng phải là tay không nắm lại. Cũng chẳng phải biết vắng lặng là vắng lặng, cũng [32a1] chẳng phải biết biết là biết, không thể vì vậy mà không biết. Tự tánh rõ vậy nên không giống với gỗ đá. Tay không cầm cây như ý, cũng không tự nắm lại, thì không thể vì vậy mà không tay, vì tay đã mặc nhiên có, nên không giống với sừng thỏ. Thời gian trước không có phiền não có thể bỏ. Thời gian giữa không có tự tính có thể giữ. Thời gian sau không có Phật có thể thành, đó gọi là 3 thời gian đã cắt đứt. Đó gọi là 3 nghiệp đã mát mẻ”. (V9)
Lại nói : “Ta một khi đã nêu tâm lên, thì nó thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa dấy lên mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở [32b1] nơi nào. Kẻ học biết mỗi ý niệm vừa dấy thì rõ ràng không thể nắm được, đó gọi là quá khứ Phật. Quá khứ không có, vị lai cũng không, đó là vị lai Phật. Liền nay, niệm niệm không dừng, đó là hiện tại Phật. Niệm niệm tương ưng, tức niệm niệm thành Phật, đó là pháp môn phương tiện tối sơ”.(V10)
Lại nói : “Lúc mặt trời lên, sáng khắp cả thiên hạ, thì hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn, tối khắp cả thiên hạ, thì hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự chúng xâm đoạt lẫn nhau, còn tính hư không thì rỗng không tự nhiên. Tâm Phật và chúng sinh [33a1] cũng như vậy. Nếu quán Phật mà dấy lên cái tướng quang minh thanh tịnh, và quán chúng sinh mà dấy lên cái tướng tối tăm ô trọc thì trải hằng hà sa kiếp, rốt cuộc cũng không chứng được bồ đề”.(V11)
Lại nói : “Ba đời các Đức Phật hết thảy ở tại trong thân của chính mình. Nhân vì tập khí làm tối tăm, cảnh vật làm xoay chuyển bèn tự lầm lạc đó thôi. Nếu đối với tâm mà vô tâm thì đó là Phật quá khứ. Nếu mình lặng vắng bất động, thì đó là Phật vị lai. Nếu tùy cơ ứng vật, thì đó là Phật hiện tại. Nếu thanh tịnh không nhiễm, thì đó là Phật ly cấu. Nếu ra vào không trở ngại, thì đó là Phật thần thông. Chỗ nào cũng thoải mái, đó là Phật tự tại.[33b1] Nếu nhất tâm không tối, đó là Phật quang minh. Nếu niệm đạo kiên cố, đó là Phật bất hoại. Phật biến hoá nhiều cách, chỉ là một sự thật mà thôi”.(V12)
Lại nói : “Diễn Nhã Đạt Đa giữ bóng quên đầu. Há chẳng phải vác đầu mà đi tìm đầu sao? Chính lúc mê, thì đâu cũng không mất. Đến khi ngộ rồi cũng không vì thế mà được. Vì sao thế? Người mê, thì gọi là mất, người ngộ thì gọi là được. Được và mất là ở tại con người, có liên quan gì đến động và tĩnh”.(V13)
Lại nói : “Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ [34a1] tính tướng vắng lặng, chẳng phải có chẳng phải không, không sinh không diệt. Tìm nó thì chẳng được, bỏ nó cũng chẳng rời. Mê hiện lượng hoặc khổ rối lên. Ngộ chân tính sáng rộng thấu triệt. Tuy tức tâm tức Phật, chỉ người chứng mới biết. Nhưng có chứng có tri, thì mặt trời trí tuệ bị chìm mất vào nơi đất hữu. Nếu không soi không ngộ, thì mây ám che khuất cửa không. Chỉ một niệm không sinh, thì thời gian trước sau cắt đứt, chiếu thể độc lập, vật ta như nhiên. Mê và ngộ còn dựa vào chân và vọng đối nhau. Nếu tìm chân bỏ vọng thì cũng như bỏ bóng làm nhọc hình.[34b1] Nếu hiểu vọng là chơn, thì giống như chỗ có im thì bóng dứt. Nếu vô tâm mà soi vọng, thì ý vọng đều bỏ. Nếu tuỳ lúc mà lặng biết, thì mọi hạnh đều dấy lên.
Vì thế, hiểu tịch là không tịch, biết thiệt là không biết, vì biết và lặng là một tâm không hai, hiểu lẽ màu của không và hữu cùng dung hợp. Chẳng trụ chẳng trước, chẳng nhiếp chẳng thu, phải trái đều quên, năng và sở thảy dứt. Khi sự dứt này cũng vắng lặng, thì bát nhã hiện tiền, tâm tâm làm Phật, không một tâm nào là chẳng phải tâm Phật. Chốn chốn thành đạo, chẳng phải một cõi trần nào mà chẳng phải nước Phật, cho nên chân và vọng, vật và ta, nêu một mà thu hết [35a1], tâm Phật và chúng sanh đều cùng về một chỗ. Cho nên biết mê thì con người tuỳ theo các pháp, mà các pháp thì muôn khác nên con người không giống nhau. Còn ngộ thì pháp tùy theo con người, người người nhất trí mà dung hợp được muôn cảnh. Lời hết nghĩ dứt, thì quả nào nhân nào nữa. Thể vốn vắng lặng, thì ai giống ai khác. Chỉ quên mang sự trống sáng, tiêu và tức dung hợp nhau, thì nó cũng như bóng trăng xuyên nước, tuy dối mà có thể thấy. Vô tâm soi cảnh tượng thì sáng rọi mà vẫn thường rỗng không”.[14]
Cứ đạo mà bàn thì nói cũng không được, im cũng không được. Dù nói và im [35b1] đều quên, cũng không ăn nhằm nhau. Vì sao? Phật xưa quang minh, tiên đức phong nhã, mỗi mỗi từ trong vô dục, vô y mà phát hiện. Hoặc có lúc một mình ngất ngểu nổi lên, mà rốt cuộc không thể nổi. Hoặc có lúc hàm dung hỗn hợp, rõ không chỗ thấy, mà rốt cuộc không định chắc vào một chỗ, cũng không cột nối vào hai đầu. Không đúng, không phải không đúng. Không sai, không phải không sai. Được cũng không có chỗ được. Mất cũng không có chỗ mất. Không từng vượt cách tơ hào. Không từng dời đổi tơ tóc. Sáng tỏ đường xưa, không thuộc huyền vi, thấy mặt dơ lên, thoáng chốc liền qua. Không ở ngôi chính, há rớt [36a1] đường tà. Không đi đại lộ, sao lọt hẻm nhỏ, quay đầu không gặp, đụng mắt không thấy. Một niệm trông khắp, bỗng nhiên trống vắng. Điểm tông yếu này, ngàn thánh không truyền. Nhắm thẳng biết rõ thì siêu vượt ngay tại chỗ.
Thế mới biết sạch sành sanh ở đâu là dễ, rõ rành rành ở đâu lại khó. Nếu thế, tay chân phận mình vứt đi, không thu mà không đến, mỗi mỗi toả sáng hiện lành, mỗi mỗi xoá vết dứt dâú, căn cơ rõ chẳng dừng, nói năng không thể lộ, triệt để nắm chặt không hở, khắp mình đánh không nát. Rốt ráo, nó là cái gì, [36a1] được cái linh thông gì, được cái kỳ lại gì? Này, quý thầy, đừng đòi biết mặt mũi nó, không cần đặt tên chữ nó, cũng đừng tìm nơi nó ở. Vì sao? Nó không có chỗ ở, nó không có tên chữ, nó không có mặt mũi. Mới dấy lên ý niệm truy tìm thì đã cách xa mười đời năm kiếp. Chẳng bằng để cho nó tự do, cần đi thì đi, cần ở thì ở, tức là thiên nhiên mà chẳng phải thiên nhiên, tức là như như mà chẳng phải như như, tức là trống vắng mà chẳng phải trống vắng, tức là bại hoại mà chẳng phải bại hoại. Nó không tham sống, không sợ chết, không cầu Phật, không sợ ma, không cùng bồ đề gặp gỡ, không [37a1] cùng phiền não ở chung, không nhận một pháp, không ghét một pháp, không có mặt, cũng chẳng không có mặt, không rời bỏ, cũng chẳng không rời bỏ. Nếu có thể thấy được như vậy thì Đức Thích Ca là tự đức Thích Ca, đức Đạt Mạ là tự đức Đạt Mạ. (V15)
Lại nói :”Tám vạn bốn ngàn pháp môn ba la mật, pháp môn nào cũng mở rộng ba ngàn đại thiên vi trần các đức Phật. Phật Phật thuyết pháp, không nói có, không nói không, không nói chẳng có chẳng không, không nói cũng có cũng không. Vì sao?
Rời bốn cú, dứt trăm sai
Gặp nhau đưa mắt ít người hay
Hôm qua sương gió [37b1] tin tức lậu
Cành buốt như xưa điểm đoá mai (18)
Lại một hôm tổ sư thong thả ngâm bài kệ thị chúng :
Hết thảy vô tâm, tự tính giới
Hết thảy vô ngại, tự tính tuệ
Không thêm không bớt tự kim cương
Thân đến thân đi vốn tam muội (19)
Lại có kệ :
Chẳng thấy một pháp, còn không thấy
Rất giống mặt trời, mây che đến
Chẳng biết một pháp, giữ biết suông
Lại như hư không, lóe chớp điện
Thoáng chốc thấy biết ấy nổi lên
Nhận lầm sao từng hiểu phương tiện
[38a1] Ngươi nên một niệm tự biết sai
Chính mình sáng thiêng thường hiển hiện (20)
Lại có kệ :
Thấy, nghe, biết, hiểu không chướng ngại
Tiếng, hương, mùi, xúc thường tam muội
Như chim giữa trời chỉ tự bay
Chẳng thủ, chẳng xả, chẳng tăng ái
Nếu hay ứng xử vốn vô tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại (21)
Lại có kệ :
Vượn lẻ gọi rơi trăng giữa lèn
Khách quê ngâm hết cả đèn đêm
Cảnh này lúc ấy ai hay được
Mây trắng nơi sâu sư tọa thiền (22)
Lại có kệ :
Hết học vô vi khỏe đạo nhân
Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân
[38b1] Vô minh thật tính tức Phật tính
Huyễn hoá thân không, ấy pháp thân (23)
Thân pháp hiểu rồi không một vật
Bản nguyên tự tính thiên chân Phật
Năm ấm mây trôi suông đến đi
Ba độc bọt xao dối lặn mọc (24)
Lại có kệ :
Hiểu tâm dung dị khó dứt tâm
Dứt được nguồn tâm, đâu cũng nhàn
Sao đêm chuyển đổi, trời mong sáng
Mây trắng như xưa, che núi xanh (25)
Lại có kệ :
Người ngu trừ cảnh chẳng trừ tâm
Kẻ trí trừ tâm không dứt cảnh
Đâu hay tâm cảnh vốn như như
Đụng mắt gặp duyên thường trấn định (26)
[39a1] lại nói :
Một lá thuyền con dạt bập bồng
Múa chèo đưa mái khác cung thương
Núi mây trăng nước đều quên hết
Hơn được Trang Chu một mộng trường (27)
Lại có kệ :
Nam đài ngồi lặng một lò hương
Quên hết muôn lo cả buổi thường,
Nào phải dứt lòng trừ vọng tưởng,
Chỉ nhờ vô sự phá tư lương (28)
Lại có kệ :
Trúc gầy thông lớn ngát sương xanh,
Trăng nhạt gió đưa mát nhẹ lành
Ai ở Nguyên tây, trời mới biết
Mỗi ngày chuông vắng tiễn chiều nhanh (29)
Lại có kệ :
Nằm mộng đâu hay mộng thực hư
Tỉnh rồi mới biết mộng trong mơ
[39b1] Lúc mê thật giống sự trong mộng
Lại tựa thức rồi khi hiểu ư. (30)
Lại có kệ :
Cây khô trước núi lẫn nhiều đường
Đến đấy người đi thảy ngại ngùng
Giữa tuyết cò xen màu há giống
Trên lau trăng sáng sắc đâu chung
Hiểu rồi, hiểu hiểu, không nơi hiểu
Huyền tới, huyền huyền cũng phải lòng
Niềm nở khúc huyền nên hãy hát
Giữa trời trăng sáng được lung linh. (31)
Lại có kệ :
Ngồi rảnh mờ mờ thánh biết đâu
Dẫu lời không vật sánh y sao
Trong mây người đá đem khua bảng,
Đáy nước gái săng sáo thổi chào
[40a1] Nếu bảo không nghe y chửa hiểu
Muốn tìm điệu nó bạn nghi nao,
Nhắn ngài xướng họa nên vần họa
Đừng hỏi cung thương trúc với tơ. (32)
Lại có kệ :
Phơn phớt đào hồng mưa nhẹ buông,
Xanh lơ tơ liễu gió đưa suông,
Phơi hình đá lạ chòm mây trắng
Nước biếc cây xanh già nắng trong. (33)
Lại có kệ :
Một nhảy nhảy qua bốn biển to,
Một xô xô đổ cả non Tu
Trong ngôi Phật tổ lưu đâu ở
Lại thổi sáo chài đỗ vũng Rô.(34)
Lại có kệ :
Việc hay từng đống chất lên rồi,
Làm lụng gầy ra chẳng phải ai,
[40b1] Lá rú vàng rơi sông đẩy mạnh
Mây hang trắng vắt gió đưa lui
Nhạn run một tiếng lòng rời rã
Chuông sớm vừa khua núi dội rồi
Qua đó Bạch dương người lại có
Suốt đêm lò lạnh gạt than nguôi. (35)
Lại có kệ :
Rõ vọng về chân, muôn lụy không,
Hà sa phàm thánh vốn xưa chung,
Mê rồi thảy giống ngài xông lửa,
Hiểu tới mới như hạc xổ lồng
Ngàn suối nước in trăng một bóng,
Bốn mùa gió thổi tiếng cây thông
Đất lòng lặng lẽ lòng nên hợp
Mới biết bình sinh ngủ giấc nồng. (36)
[41a1] Lại có kệ :
Tâm pháp quên phăng, vọng tưởng còn,
Sắc trần chẳng khác, vẫn trầm thêm,
Xuân qua chim lại không bay đến,
Nào biết ai là kẻ ở am. (37)
Lại có kệ :
Tạng thân đâu vết lại đâu che
Thoát thể đâu nương chốn xí này
Gương cũ chẳng mài mà tự chiếu
Nắng thu ướt đẫm khói sương vây. (38)
Lại có kệ :
Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,
Phàm thánh hàm linh vẫn một nhà,
Một niệm không sinh toàn thể hiện,
Sáu căn xẩy động phủ mây qua
Đoạn trừ phiền não, thêm mắc bệnh,
Tìm đến chân như, thảy lại tà
[41b1] Tùy thuận mọi duyên không quản ngại,
Niết bàn sinh tử tựa không hoa. (39)
Lại có kệ :
Cảnh duyên không xấu tốt,
Xấu tốt nổi do lòng,
Lòng nếu không ép gọi,
Tình bậy chỗ nào rong
Tình bậy đã không dấy,
Biết khắp thảy lòng chân. (40)
Lại có kệ :
Niệm tưởng xưa nay huyễn,
Chân tính chẳng đầu đuôi
Nếu hiểu được ý ấy,
Sóng lớn tự nhiên thôi. (41)
Lại có kệ :
Thấy đạo mới tu đạo,
Không thấy, tu cái gì
[42a1] Tính đạo như hư không
Xem khắp người tu đạo,
Gạt lửa tìm bọt trôi
Chỉ cần xem trò rối,
Dây đứt, đứng hết thôi. (42)
Lại có kệ :
Tìm chân, chân không tướng
Xét vọng, vọng chẳng hình
Ngó lại, tâm tìm xét,
Biết tâm cũng giả danh. (43)
Lại có kệ :
Thiện đã từ tâm sinh,
Ác há rời tâm có,
Thiệc ác thảy ngoại duyên,
Đối tâm thật chẳng có. [42b1]
Bỏ ác đưa về đâu,
Lấy thiện khiến ai ngó,
Thương thay người nhị kiến,
Theo duyên chạy đây đó.
Nếu hiểu vốn vô tâm
Lỗi xưa mới hối nó. (44)
Lại có kệ :
Có vật trước trời đất,
Không hình vốn vắng teo,
Hay làm chủ muôn thứ,
Bốn mùa tàn chẳng theo. (45)
Lại có kệ :
Tay không vác cây bừa,
Đi bộ cưỡi lấy trâu,
Trên cầu người qua bước,
Cầu trôi nước trôi đâu. (46)
[43a1] Lại có kệ :
Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Sáng sáng dậy cùng Ngài,
Đứng ngồi theo nhau giữ,
Nói im cùng chỗ ngơi
Tóc tơ chẳng rời bước,
Tương tợ bóng hình ai
Phật đến đâu muốn biết,
Chỉ tiếng nói ấy thôi. (47)
Lại có kệ :
Ánh mắt theo sắc hết,
Tai hay tiếng đuổi thôi,
Về nguồn đâu ý khác,
Hôm qua, sáng nay rồi. (48)
Lại có kệ :
Mảnh trăng đầm hồ lạnh,
Chỏm mây ánh trời xanh. [43b1]
Nếu đối người đạt đạo,
Tin ấy thật vui xinh. (49)
Lại có kệ :
Thấy vật liền thấy tâm,
Không vật, tâm đâu hiện
Mười phần trong nghẹt thông,
Chân tâm khắp tới đến
Nếu hiểu biết nẩy sinh,
Lại thành điên đảo kiến
Gặp cảnh, hay vô tâm
Mới thấy bồ đề hiện. (50)
Lại có kệ :
Phật nhờ vô tâm hiểu,
Tâm vì có Phật mê,
Phật tâm nơi thanh tịnh,
Ngoài mây hót vượn quê. [44a1](51)
Gió nổi tâm rung cây
Mây sinh tính dâý bụi,
Nếu biết việc ngày nay,
Xưa nay người ngu muội. (52)
Lại có kệ :
Nơi chặn, đâu tường vách,
Chỗ thông, chẳng hư không,
Nếu ai hiểu như vậy,
Tâm sắc xưa nay đồng. (53)
Lại có kệ :
Đá cứng vùi ngọc quý
Bùn dơ mọc hoa sen,
Nên biết nơi phiền não,
Bồ đề ấy ngộ liền. (54)
Lại có kệ :
Nhật dụng, đâu chẳng đạo,
Tâm yên, ấy là thiền. [44b1]
Hang mây lặng mình ở,
Mộng mị đám tuyết bên. (55)
Lại có kệ :
Cảnh lập, tâm liền có
Tâm không, cảnh chẳng sinh,
Cảnh trống, tâm vắng lặng,
Tâm rọi cảnh rành rành. (56)
Lại có kệ :
Y pháp, không y người,
Y nghĩa, không y lời,
Y trí, không y thức,
Y kinh liễu nghĩa, không y kinh không liễu nghĩa. (57)
Lại có kệ :
Thơm phức sen một đoá,
Xanh gầy, tùng đôi cây,
Sân chùa mãi nhắm lớn,
Sao nhọc hỏi cao dầy. (58)
[45a1] Một hôm, quan trấn thủ lại đến Nguyệt Đường, lại vịnh thơ:
Chết cạn ai hay ở ẩn vừa,
Nguyệt Đường nay chẳng Nguyệt Đường xưa,
Thông già cao thấp tàng xanh tỏ,
Sen Phật trước sau hương ngát đưa
Băng ngọc phòng thiền in kín giữ,
Phụng hoàng nhà khách sáo mời thưa,
Áo huyền cầu phước, đâu cần chuộng
Giác ngộ Y Vương âý niệm thường
Một hôm tổ sư bảo môn đồ :”Mặt mũi xưa nay là thế nào?” Đại chúng đáp :
Non xanh đầy mắt đâu khoanh cỏ,
Nước biếc tít mù hết sóng [45b1] lan
Lại hỏi : “Pháp thân của chính mình là thế nào?” Đại chúng đáp :
Pháp không năm uẩn,
Sa giới thể trùng
Ghi về việc tổ sư nhằm năm 88 tuổi, dặn dò để niết bàn.
Tổ sư thị chúng rằng : “Năm nay Ất mùi, đầu mùa Xuân, xin nói với thượng tọa (Chân Lý Hiển Mật) rằng : Ta nay khí lực ít mạnh, thường đái tháo, khó đi tiêu, đây là chứng suy vi. Thời đã đến, không thể ở lâu được nữa”. Thượng tọa bạch với tổ rằng :”Pháp Phật vi diệu, có gì thiết yếu xin tổ truyền dạy cho hết lẽ”. Tổ nói :”Xưa nay đào dạy ta đã truyền giao hết lời, [46a1] không còn lời gì để nói nữa. Chỉ đây là lúc ta phó thác thôi”. Thượng tọa lại hỏi :”Đại chúng nên sinh hoạt thế nào?” Tổ dạy : “Đem tâm mà dùng”.
Đến mùng 10 tháng 5, giờ Dậu, môn đồ trong chùa bỗng thâý sao mai xuất hiện sáng rực chiếu khắp cả chùa, thì mới biết việc đó. Đến sớm ngày 12, tổ bảo người hầu : “Đem nước vào nhà tắm, ta sẽ tắm rửa”. Tắm xong, tổ trở về phòng bảo thượng tọa : “Ta sắp lâm chung, bảo hết thảy đại chúng”. Thượng tọa đem ca sa pháp phục cho tổ mặc, lại thêm tấm vải Chuẩn Đề và tràng hạt đeo vào cổ, tổ ngồi kiết già nhập định 2 giờ, rồi phó chúc bài kệ rằng :
Tuổi đương tám mươi tám
Tọa thoát tự nhiên bỗng
Có đến cũng có đi
Không chết cũng không sống
Pháp tính giống hư không
Sắc thân như bọt mọn
Đông đô rời ta bà
Tây phương đài sen đón. (59)
Ngâm kệ xong, đến giờ Mùi, tổ sư tọa thoát, yên lặng mà mất, nhập quan và đặt vào tháp, không có trà tỳ. Môn đồ hai phía xuất gia và tại gia họp lại như mây để cúng lễ. Thượng tọa phương trượng [Thiếp theo đây dịch từ tờ 47a bản chép tay Hương Hải thiền sư ngữ lục] đại hoà thượng đem hết môn đồ tại gia và xuất gia xây dựng hai toà am, dùng toàn gạch vuông liễn sắt, cùng với khám báu tượng tổ và hương án ở trong am, lại dựng bảo tháp 3 tầng cao 21 thước, hương đèn không dứt, sớm tối đủ lễ, gặp ngày kỵ 12 tháng 5 mỗi năm, thiện tín đàn na họp lại đầy đất chùa. Dần dà năm qua tháng lại. lần lữa tới mùa đông năm (Giáp?) dần (1737) vâng lệnh truyền thiên hạ khảo thí trai tăng, thì thượng tọa được nhà nước dùng cùng với quan phụng sai giám khảo các môn đại chúng trai tăng. Phàm tăng đạo trong nước mỗi mỗi đều đến…
Thảo luận về post