LỜI NGƯỜI DỊCH
Tháng giêng năm 1999 chùa Viên Giác mở khóa học luyện dịch Hán tạng, bài trắc nghiệm đầu tiên là lời tựa bộ Lịch Đại Pháp Bảo Ký này, nhân cơ duyên đó mà chúng tôi chuyển ngữ tập sách.
Xin thành kính tri ân thầy viện chủ chùa Định Thành, Tổ đình Hội Phước, thầy trụ trì chùa Viên Giác và chư Tăng, Lý giáo sư. Đồng thời cũng gởi bản dịch nầy đến tập thể lớp Hán văn Phật Học, quí Phật tử trong đạo tràng, những người Phật tử thân thương chân tình, các vị đã tạo cho tôi có nhiều kỷ niệm đẹp, điều đó khắc sâu vào cõi lòng tôi, dù cho ở tận chân trời xa xăm nào đi nữa chúng tôi không thể nào quên. . .
Đêm nay, vùng sông nước mênh mông, lắng nghe tiếng máy nổ ì ì của những con tàu đang xuôi ngược trên dòng Cửu Long giang. Một dòng sông mang nhiều phù sa, khơi nguồn từ vùng cao nguyên Tây Tạng huyền bí, và kết thúc tại đồng bằng miền tây Nam bộ, rồi chảy ra đại dương mênh mông.
Ngoài kia, bên song cửa những đóa hoa ngâu đang bừng nở toả hương thơm ngát, nhìn trên vòm trời đầy sao, nghe tiếng gió vi vu thơm mùi cỏ dại, những tiếng côn trùng nỉ non hoà quyện như một bản nhạc thiên nhiên vô tận. Ngồi gẫm lại cuộc đời du phương hành đạo của nhiều đời tổ sư, bèn đem bản dịch ra đọc lại chỉnh sửa lưu hành.
Bản dịch chắc chắn có những chỗ còn kém khuyết, rất mong các bậc cao minh góp ý chỉ bảo, xin chân thành tri ân. Hồi hướng công đức nầy về bốn ân ba cõi, và chúng sanh trong pháp giới, đều trọn thành Phật đạo.
Hội Phước tổ đình
Mùa Vu Lan năm Kỷ Sửu
Thích Thiện Phước
LỜI TỰA
KHI SỬA CHỮA KHẮC IN LẠI
SÁCH “LỊCH ĐẠI PHÁP BẢO KÝ”
Thích Thiện Phước dịch
Hậu học Lý Việt Dũng hiệu đính
Sách “Lịch đại pháp bảo ký”, một quyển thuộc bản viết từ đời Đường, được tìm thấy ở sa mạc Đôn Hoàng. Có hai quyển : Một hiện được cất giữ ở Bác vật quán tại Luân Đôn nước Anh (British Museum) và một được cất giữ ở Quốc dân Đồ thư quán tại Ba Lê nước Pháp (Bibliothèque Nationale). Cả hai loại bản đều được đưa vào quyển 51 Đại chính Tân tu Đại tạng kinh. Nguyên văn sách này có phần thuộc loại bút ký và tạp lục, nhưng nội dung thì cùng với “Lăng già Sư tư ký”, có thể xem như hai viên ngọc bích trong sử liệu ở thời kỳ đầu của Thiền tông vậy!.
Trong sách không thấy ghi chú ai là người trước tác, nhưng căn cứ theo văn nghĩa mà suy đoán thì hình như do đệ tử của hòa thượng Vô Trụ, chùa Đại Lịch bảo đường ở phủ Thành Đô, đạo Kiếm Nam, so với người trước tác “Lăng già Sư tư ký” là Tịnh Giác thì hãy còn sau một hai thứ lớp. Trong sách liệt kê 28 vị tổ từ Đạt Ma trở về trước ở Tây Trúc, bài bác thuyết lý của Tịnh Giác và xem Cầu Na Bạt Đà La là sơ tổ Thiền tông Trung Hoa như sau :
“… Có vị sa môn là sư Tịnh Giác ở Đông Đô, đệ tử của thiền sư Thần Tú ở Ngọc Tuyền sơn, soạn quyển “Lăng già sư tư huyết mạch ký” một quyển, trưng dẫn quàng xiên Cầu Na Bạt Đà La Tam Tạng thời Nam triều Lưu Tống là Tổ thứ nhất Thiền tông Trung Hoa, không biết căn do nên mê hoặc dối lừa kẻ hậu học khi cho rằng Cầu Na là sư phụ của Bồ Đề Đạt Ma. Cầu Na Bạt Đà La chỉ là Tam Tạng Tiểu Thừa học nhân dịch kinh, chứ không phải là bậc thiền sư, vì ngài đã dịch ra bốn quyển kinh Lăng Già. Ông ta cũng không phải là người khai thụ kinh Lăng Già cho Đạt Ma tổ sư. Đạt Ma là tổ đầu đuôi truyền nhau đời thứ 28 các tổ Tây thiên sau khi kế thừa Tăng Già La Xoa…(1).
Trong sách “Lăng già Sư tư ký”, sư Tịnh Giác tự xưng mình là đệ tử của Huyền Di, nhưng sách “Lịch đại pháp bảo” lại bảo sư là đệ tử của ngài Thần Tú. Tên sách “Lăng già sư tư ký” cũng được thêm vào hai chữ “Huyết mạch”, không biết đằng nào đúng và đằng nào sai, thật hết sức khó đoán định, nhưng việc sách “Sư tư ký” đương thời được lưu truyền rộng rãi thì có thể chứng minh được.
Sách “Lịch đại pháp bảo”, phần ký thuật từ ngũ tổ Hoằng Nhẫn trở về trước đều căn cứ theo “Sư tư ký”, nhưng văn phong chuộng giản lược. Phần ghi chép về Lục tổ Huệ Năng thì so ra khá tỉ mỉ và rành rọt. Vậy phải chăng là biệt phái của Lục tổ ? Lại nữa, về chuyện lưu truyền áo cà sa làm tín vật và việc liên hệ của Tổ với Hoàng hậu Võ Tắc Thiên thì được chép nhặt rất rõ. Ngoài ra, lại còn có phần ghi chép về các ngài Trí Sân, Xử Tịch, Vô Tướng và Thần Hội nữa. Cả sự tích của hòa thượng Vô Trụ cùng giáo lý của ngài cũng được chú thuật thật tỉ mỉ và chiếm hết nửa phần quyển sách thì ta có thể đoán là sách được môn nhân của hòa thượng trước tác.
Nay về Kim Cửu kinh, tôi xin đem sách phân ra làm ba phần: Từ Lục tổ trở về trước là quyển thượng, lấy phần nói về hòa thượng Vô Trụ làm quyển hạ và lấy đoạn nói về các ngài Trí Sân – Xử Tịch làm quyển trung; lại đem hai dị bổn hiệu đính lẫn nhau, thêm thiếu – xén thừa, phân chia đoạn lạc, câu cú chấm phết và khắc in vào Khương Viên tùng thư, cùng với quyển “Lăng già Sư tư ký” đã in trước đây, được lưu hành trong đời một lượt. Tuy nhiên, bản viết từ đời Đường thì tôi chưa từng được xem qua lần nào mà chỉ căn cứ theo Tân Tạng, đồng thời tự mình thêm việc sửa đổi, cho nên chắc không tránh khỏi những chỗ sai sót. Tôi mong các bậc học rộng ban cho những chỉ giáo để kiểu chính.
Tháng Giêng, năm Ất Hợi
Kê Lâm Kim Cửu kinh cẩn chí tại Thẩm Dương vô sở đắc cư
(1) Chú thích : Ý tác giả chủ quan quá khích, cho rằng phàm người nào đã dịch kinh thì chỉ là hạng “Tam Tạng Tiểu Thừa học nhân”, chứ không phải là thiền sư, vì thiền sư như Bồ Đề Đạt Ma chẳng hạn, khi truyền pháp thì chỉ “Mặc truyền tâm ấn”.
KHẮC IN LẠI “LỊCH ĐẠI PHÁP BẢO KÝ”
Quyển thượng
(Còn gọi là “Sư Tư Chúng Mạch Truyện”, “Định thị phi tồi tà hiển chánh phá hoại nhất thiết tâm truyền” và “Tối thượng thừa đốn ngộ pháp môn”, Kê Lâm Kim Cửu kinh, Minh Thường hiệu đính).
Xét trong các kinh Bổn Hạnh, kinh A Hàm, kinh Phổ Diệu, kinh Ứng Thụy, kinh Văn Thù Sư Lợi Niết Bàn, kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh, kinh Vô Cấu Quang Chuyển Nữ Thân, kinh Quyết Định Tỳ Ni, kinh Đại Phật Đảnh, kinh Kim Cang Tam Muội, kinh Pháp Cú, kinh Phật Tạng, kinh Anh Lạc, kinh Hoa Nghiêm, kinh Đại Bát Nhã, kinh Thiền Môn, kinh Niết Bàn, kinh Lăng Già, kinh Tư Ích, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, kinh Dược Sư, kinh Kim Cang Bát Nhã, kinh Phó Pháp Tạng, kinh Đạo Giáo Tây Thăng, truyện Thích Pháp Lâm, Thích Hư Thật ký, Khai nguyên Thích giáo, Châu Thư dị ký, truyện Hán Pháp Nội, truyện Doãn Hỉ Nội, Mâu Tử, Liệt Tử, Phù Tử, Ngô Thư, Tinh Cổ Lục và Dương Lăng Già Dĩnh Đô cố sự …
Năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Bình (60) thời Hậu Hán Minh Đế, vua nằm mộng thấy người bằng vàng, thân cao một trượng sáu thước (Tàu), có vầng hào quang rực sáng phía sau gáy, bay liệng ở sân điện. Sáng sớm, vua đem hỏi các triều thần: “Đó là điềm gì?”. Thái sử Phó Nghị tâu: “Ở Tây phương, có bậc đại thánh, gọi là Phật, chính là hình tượng này vậy!”. Minh Đế hỏi rằng: “Vì sao mà biết?”. Thái sử Phó Nghị đáp: “Trong bộ Châu Thư dị ký chép: Phật sanh năm Giáp Dần, thời Chiêu Vương. Phật diệt độ năm Nhâm Thân, thời Mục Vương. Một ngàn năm sau, giáo pháp của Ngài sẽ lưu truyền đến đất Hán, chính là lúc này vậy!”. Minh Đế bèn sai các ông: lang trung Thái Âm, bác sĩ Tần Cảnh… đi sứ sang nước Thiên Trúc, thỉnh được tượng Phật, hình tượng bồ tát và kinh Tứ Thập Nhị Chương; lại thỉnh được hai vị pháp sư là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Minh Đế thỉnh họ lên điện đường để cúng dường và xây dựng chùa Bạch Mã ở phía Tây thành Lạc Dương.
Ngày mùng 1 tháng Giêng năm thứ 14, niên hiệu Vĩnh Bình, các đạo sĩ ở Ngũ Nhạc, Hoắc Sơn và Bạch Lộc Sơn là nhóm Trữ Thiện Tín, Bí Trai Tài … cả thảy là 690 người, dâng biểu tâu vua rằng: “Chúng thần nghe Thái Thượng vô hình, hư vô tự nhiên, thượng cổ đồng tôn, trăm vua không đổi. Nay bệ hạ bỏ gốc mà chạy tìm ngọn, cầu giáo ở Tây Vực, coi trọng Hồ thần, chẳng xét kỹ lời lẽ của họ. Chúng thần ở xứ Hoa Hạ này, phần nhiều có tư chất thông tuệ, rộng xem khắp kinh điển. Vậy xin bệ hạ cho phép chúng thần cùng so tài với họ. Nếu có thắng thì xin trừ bỏ điều dối trá, còn nếu chẳng được thế thì sẽ tùy nghi quyết định lại”. Vua phán rằng: “Chuẩn y”, vua bèn hạ lệnh quan hữu ti dọn bày đồ cúng đầy đủ, cùng với quan liêu văn võ trong ngoài, từ hàng ngũ phẩm trở lên, đến rạng sáng ngày rằm, nhóm họp ở chùa Bạch Mã. Đạo sĩ thì ở ngoài cổng chùa, bố trí ba đàn và mở ra 24 cửa. Vua bày Xá Lợi, kinh cùng tượng Phật ở ngoài cổng phía Nam chùa và phụng đặt trên điện tạm làm bằng bảy báu. Bọn ông Trữ Thiện Tín và Bí Trai Tài đem kinh Đạo giáo, sách Chư Tử và phù chú đặt trên đàn cúng, dùng lửa mà chứng nghiệm và thương cảm rơi lệ mà khấn rằng : “Hồ thần làm rối loạn Hoa Hạ, xin Thái Thượng Thiên Tôn biểu thị cho chúng sanh biện được thật giả”. Đạo kinh, Tử thư, phù thuật … gặp lửa bị thiêu cháy thành tro. Các đạo sĩ sững sờ, người đầu tiên định bay lên trời nhưng bay không được, người đầu tiên định ẩn hình nhưng ẩn không được và người đầu tiên định vào trong lửa nước nhưng không dám vào. Người niệm chú, kẻ kêu gọi sai khiến đều không thể ứng. Mọi thứ công năng đều không thể nghiệm được ! Trữ Thiện Tín, Bí Trai Tài … tự cảm mà chết đi!
Khi ấy, Xá Lợi của Phật phóng ra ánh sáng năm màu, xoay vần như dù lộng, trùm khắp cả đại chúng, ánh sáng che lấp cả vầng mặt trời. Pháp sư Ma Đằng nằm ngồi ở hư không, thần hóa tự tại, trời mưa hoa báu và trỗi các thứ âm nhạc trời. Trúc Pháp Lan dùng Phạm âm khen ngợi, pháp sư Ma Đằng nói bài kệ rằng :
Chồn rừng chẳng phải loài sư tử
Ngọn đèn chẳng phải ánh nhật nguyệt
Ao không thu chứa bằng biển cả
Gò không lởm chởm như núi cao.
Minh Đế rất hả dạ, bèn cho con cái các bậc công hầu từ ngũ phẩm trở lên cùng phu nhân xuất gia, sáu trăm người đạo sĩ cũng đầu Phật xuất gia. Trúc Pháp Lan tụng các kinh: Công Đức Xuất Gia, Phật Bổn Sanh… Minh Đế thật vui mừng, cả nước đều quy y theo Phật giáo.
Hán Minh Đế hỏi hai sư rằng: “Phật gọi là vua của các pháp, thế sao Ngài không sanh ở đất Hán?”. Pháp sư Ca Diếp Ma Đằng đáp: “Thành Ca Tỳ La Vệ là trung tâm của trăm ức mặt trời mặt trăng, là chủ của Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Tất cả rồng thần có phước đều sanh ở nước ấy, cho nên đấng Pháp Vương phải sanh ở nước Thiên Trúc”.
Minh Đế lại hỏi rằng: “Giòng họ của Phật là ai, khi nào sanh và lúc nào diệt?”. Pháp sư Ma Đằng đáp: “Phật vốn là cháu đời một ngàn của Kim Luân Vương, con vua Tịnh Phạn, họ Cù Đàm, cũng gọi là giòng họ Thích. Ngày 15 tháng 7 năm Quý Sửu, từ cung trời Đâu Suất, Ngài giáng hạ thác vào trong thai của phu nhân Ma Da. Đến mùng 8 tháng 4, ở vườn Lâm Tỳ Ni, Ngài đản sanh bên hông phải của phu nhân Ma Da; lại có 500 giòng họ Thích, 500 bạch mã kiền trắc, xa nặc… cùng lúc với Phật đồng sanh vào mùng 8 tháng 4, mùng 8 tháng 2 năm Nhâm Thân thì vượt thành xuất gia, ngày 15 tháng 2 năm Quý Mùi thì nhập Niết Bàn. Phật tuy không sanh ở đất Hán, nhưng một ngàn năm hay năm trăm năm sau, vì chúng sanh có duyên nên Ngài bảo các thánh đệ tử hành hóa tại nơi ấy trước tiên.
Xét trong kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh có chép: “Nhân dân nước Chân Đán ở phía Đông Bắc Thiên Trúc, phần đông không có lòng kính tin và kẻ tạo tội cũng nhiều. Nay ta trước sai ba vị thánh đệ tử đều là bồ tát, thị hiện tại nước ấy mà hành hóa: Ma Ha Ca Diếp xưng là Lão Tử, Quang Tịnh Đồng Tử hiệu là Trọng Ni và Minh Nguyệt Nho Đồng gọi là Nhan Hồi, bàn giảng ngũ kinh, thi thơ, lễ nhạc, cung cách và phép tắc để dụ hóa dần dần, rồi sau kinh Phật sẽ truyền đến ”.
Xét sách Mâu Tử có chép: “Khi xứa, hoàng đế Hiếu Minh nhà Hán, đêm nằm mộng thấy thần nhân, thân có vầng hào quang, bay đến trước điện, trong ý mừng rỡ, lòng rất vui vẻ. Hôm sau, vua truyền hỏi khắp các quần thần: “Đây là vật gì?”. Có vị quan Thông sự Xá nhân Phó Nghị tâu rằng: “Thần nghe ở nước Thiên Trúc, có người đắc đạo, hiệu là Phật, bay liệng nhẹ nhàng, thân có hào quang. Thần e rằng người trong mộng chính là vị thần ấy”. Thế là vua tỏ ngộ, bèn sai sứ giả là Trương Khiên, Vũ Lâm lang trung Tần Cảnh, bác sĩ đệ tử Vương Tôn … cả thảy 12 người tại nước Đại Nguyệt chép lấy 42 chương kinh Phật, cất ở gian thứ 14 trong thạch thất Lan Đài. Lúc ấy, vua còn cho dựng chùa Phật ngoài cửa Tây Ung thành Lạc Dương. Trên vách chùa, có vẽ muôn ngựa ngàn xe của triều đình quấn 13 vòng xung quanh tháp. Lại nữa, ở Thanh Lương đài, tại Nam Ung và trên cửa thành Khai Dương, có vẽ hình tượng Phật. Khi Hán Minh Đế còn tại thế, vua biết mạng sống là vô thường nên trước tạo thọ lăng. Lăng ấy gọi là Hiển Tiết. Trên lăng, cũng có vẽ tượng Phật. Khi vua chưa băng hà, đất nước thịnh vượng, nhân dân an hòa. Các man mọi ở xa mộ nghĩa đến để nương nhờ ân đức và xin làm thần thuộc thì kể có số ức, cho nên mới gọi thụy hiệu là “Minh” vậy! Từ đó trở về sau, xung quanh kinh thành và các châu huyện, nơi nơi đều có chùa Phật, người học đạo do đây mà đông dần (theo bổn hiệu đính của Bình Tân quán và Tử Thư bách gia).
Tấn thư chép : “Thời Hoàn Đế nhà Tấn muốn san trừ Phật pháp, cho nên mời pháp sư Viễn Công ở Lư (Lô) Sơn đến. Vua hỏi : “Gần đây, Trẫm thấy tăng ni giới hạnh không thuần khiết, phần nhiều thì hủy phạm. Vậy Trẫm muốn san trừ gạn lọc, việc này giờ đây nên chăng?”. Viễn Công đáp: “Núi Côn sanh ra ngọc vẫn còn lẫn với đất cát, sông Lệ tuy nhiều vàng nhưng cũng lộn tạp với ngói gạch. Bệ hạ chỉ được kính pháp trọng người, chứ không thể khinh người mạn pháp”. Vua Tấn mới đại xá.
Tiêu Lương Võ Đế hội họp tam giáo nói rằng: “Ta thuở nhỏ học Châu Lễ, tuổi thiếu niên học hết lục kinh; trong thời gian đó còn xem khắp sách đạo Lão, cả hữu danh lẫn vô danh; đến tuổi về già mới mở trang sách Phật, thấy như mặt trời soi sáng các vì sao”.
Xét trong kinh Hoa Nghiêm có chép: “Tất cả chư Phật khi ở ngôi bất thối hoặc khi còn làm Bồ tát, hoặc làm Thanh văn, hoặc làm Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm Ma vương, hoặc làm Quốc vương, đại thần, cư sĩ, trưởng giả, thể nữ, bá quan, đại lực quỷ thần, thần núi, thần rạch, thần sông, thần biển, thần chủ mặt trời, thần chủ mặt trăng, thần chủ ngày, thần chủ đêm, thần chủ lửa, thần chủ nước, tất cả thần lúa mạ, thần cây và cả các ngoại đạo đều dùng đủ các thứ phương tiện để giúp đỡ Đức Thích Ca Như Lai giáo hóa chúng sanh”.
Xét trong phẩm Đà La Ni trong kinh Đại Bát Nhã có chép : “Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Thế Tôn! Kinh điển Bát Nhã Ba La Mật Đa thật sâu xa như thế, vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn thì phương nào sẽ được hưng thịnh?”. Phật nói: “Xá Lợi Phất, kinh điển Bát Nhã Ba La Mật thật sâu xa như thế! Sau khi ta nhập Niết Bàn, từ phương Bắc đến phương Đông Bắc dần dần sẽ được hưng thịnh, bởi vì phương ấy có nhiều tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di và sa di ni an trú trong Đại Thừa hay nương theo Bát Nhã Ba La Mật sâu như thế mà nhiều tin ưa”. Phật lại bảo Xá Lợi Phất : “Sau khi ta nhập Niết Bàn, sau thời phân chia 500 năm, Bát Nhã Ba La Mật Đa rất sâu xa như thế ở phương Đông Bắc làm mạnh Phật sự”.
Xét trong kinh Phó Pháp Tạng có chép: “Đức Thích Ca Như Lai sau khi diệt độ, chánh Pháp Nhãn phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp, Ca Diếp phó chúc cho A Nan, A Nan phó chúc cho Mạt Điền Địa, Mạt Điền Địa phó chúc cho Thương Na Hòa Tu, Thương Na Hòa Tu phó chúc cho Ưu Ba Cúc Đa, Ưu Ba Cúc Đa phó chúc cho Đề Đa Ca, Đề Đa Ca phó chúc cho Di Giá Ca, Di Giá Ca phó chúc cho Phật Đà Nan Đề, Phật Đà Nan Đề phó chúc cho Phật Đà Mật Đa, Phật Đà Mật Đa phó chúc cho Hiếp Tỳ Kheo, Hiếp Tỳ Kheo phó chúc cho Phú Na Da Xà, Phú Na Da Xà phó chúc cho Mã Minh, Mã Minh phó chúc cho Long Thọ, Long Thọ phó chúc cho Ca Na Đề Bà, Ca Na Đề Bà phó chúc cho La Hầu La, La Hầu La phó chúc cho Tăng Ca Na Đề, Tăng Ca Na Đề phó chúc cho Tăng Ca Da Xá, Tăng Ca Da Xá phó chúc cho Cưu Ma La Đà, Cưu Ma La Đà phó chúc cho Xà Dạ Đa, Xà Dạ Đa phó chúc cho Bà Tu Bàn Đà, Bà Tu Bàn Đà phó chúc cho Ma Noa La, Ma Noa La phó chúc cho Hạc Lặc Na, Hạc Lặc Na phó chúc cho Sư Tử Tỳ Kheo và Sư Tử Tỳ Kheo phó chúc cho Da Xá Bà Tư Dĩ. Cho nên, từ nước Trung Thiên Trúc đến nước Kế Tân, vua tên Di Đa La Quật không tin Phật pháp, hủy pháp, phá hoại chùa chiền, giết hại chúng sanh, vâng thờ bọn ngoại đạo Mạt Mạn Ni và Di Sư Ha. Lúc bấy giờ, Sư Tử Tỳ Kheo cố đến nước ấy để giáo hóa. Vua kia vô đạo, tự tay cầm gươm bén, nói rằng: “Nếu là thánh nhân thì các sư đây đều phải giới hạn hình hài”. Khi ấy, Sư Tử Tỳ Kheo thị hiện giới hình, thân tuôn ra sữa trắng. Còn Mạt Mạn Ni và Di Sư Ha đều bị chém chết như người phàm, máu tuôn vãy ra đất. Vua kia phát tâm qui y Phật, bèn bảo đệ tử của Sư Tử Tỳ Kheo (Sư Tử Tỳ Kheo trước phó chúc cho Xá Na Bà Tư Dĩ) vào nước Nam Thiên Trúc giáo hóa rộng rãi và độ thoát chúng sanh. Vua lại cho truy tìm các đệ tử của ngoại đạo Mạt Mạn Ni, Di Sư Ha…; tìm được rồi, bèn ở triều đường mà lập giá treo đầu, người trong cả nước đều đến bắn. Vua nước Kế Tân mới ra lệnh cho các nước lân cận rằng nếu có pháp này thì mau đuổi ra khỏi nước. Nhờ Sư Tử Tỳ Kheo mà Phật pháp lại hưng thịnh. Sau Xá Na Bà Tư phó chúc cho Ưu Bà Quật, Ưu Bà Quật phó chúc cho Tu Bà Mật Đa, Tu Bà Mật Đa phó chúc cho Tăng Già La Xoa, Tăng Già La Xoa phó chúc cho Bồ Đề Đạt Ma La là đời thứ 29 (Thiền tông) ở nước Tây Vực. Nếu trừ Đạt Ma La thì chính là 28 đời vậy!
Có sa môn Tịnh Giác ở Đông Đô là đệ tử của thiền sư Thần Tú tại Ngọc Tuyền sơn, làm ra bộ “Lăng già sư tư huyết mạch ký” một quyển, quàng xiên cho là Cầu Na Bạt Đà La Tam Tạng ở triều Tống là Tổ thứ nhất; không biết căn do, làm rối rắm mê muội kẻ hậu học rằng ông ta chính là thầy của Đạt Ma tổ sư. Cầu Na Bạt Đà La vốn là người học đạo Tiểu Thừa và dịch kinh Tam Tạng, chứ chẳng phải là thiền sư vì đã dịch ra bốn quyển kinh Lăng Già, cũng chẳng phải là người khai thọ kinh Lăng Già cho Đạt Ma tổ sư. Đạt Ma tổ sư từ đới thứ 28 đầu đuôi truyền nhau, kế thừa Tăng Già La Xoa. Sau Huệ Khả đại sư đích thân ở Tung Cao sơn, chùa Thiếu Lâm, hỏi tổ sư Đạt Ma về việc kế thừa hồi trước, việc phó chúc truyền nhau, tự có lời văn ghi chép rõ ràng. Còn Tịnh Giác sư dẫn nhầm Cầu Na Bạt Đà La mà cho là Tổ thứ nhất (Thiền tông Trung Hoa). Thật là làm rối loạn cho người học pháp vậy!
Kinh Pháp Hoa có chép : “Không cho thân cận kẻ học nhân Tiểu Thừa Tam Tạng”. Tam Tạng Cầu Na Bạt Đà La dịch ra 4 quyển kinh Lăng Già, gọi là A Bạt Đà Bảo Lăng Già kinh. Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi triều Ngụy dịch ra 10 quyển gọi là Nhập Lăng Già kinh. Những người trên đều là Tam Tạng dịch kinh, chứ chẳng phải là thiền sư vì các người ấy đều truyền giáo bằng văn tự, còn tông đồ truyền pháp của Đạt Ma tổ sư vốn không đem một chữ để dạy mà chỉ “mặc truyền tâm ấn”.
Tổ thứ nhất, thiền sư Bồ Đề Đạt Ma Đa La triều Lương, là Thái tử thứ ba của vương quốc Nam Thiên Trúc, xuất gia từ nhỏ, sớm theo ý thầy, ngay nơi lời nói mà ngộ đạo, xiển hóa xứ Nam Thiên và làm Phật sự lớn. Khi ấy, Ngài quán thấy chúng sanh đất Hán có căn tánh Đại Thừa, bèn sai hai người đệ tử là Phật Đà và Da Xá qua đất Tần mà nói giáo pháp đốn ngộ. Các đại đức trong nước Tần vừa nghe liền hồ nghi, đều không tin nhận. Vì thế, hai sư bị đuổi ra ở chùa Đông Lâm – Lô (Lư) sơn.
Lúc đó, pháp sư Viễn Công hỏi: “Các đại đức đem giáo pháp gì đến mà bị đuổi ra vậy?”. Thế là hai vị Bà La Môn khoát tay, bảo Viễn Công: “Bàn tay làm nắm tay, nắm tay làm bàn tay. Việc đó có mau không?”. Viễn Công đáp: “Rất mau”. Hai Bà La Môn nói: “Việc này chưa phải là mau. Phiền não tức Bồ Đề, đó mới gọi là mau”. Viễn Công thâm đạt ý chỉ, mới biết Bồ Đề và phiền não vốn không khác, liền hỏi: “Pháp này ở nước kia được học từ ai?”. Hai vị Bà La Môn đáp: “Học từ thầy tôi là Đạt Ma Đa La đấy!”. Khi Viễn Công đã tin sâu, hai sư liền dịch bộ kinh Thiền Môn một quyển, nói đầy đủ rõ ràng về thiền pháp của Tiểu Thừa và Đại Thừa. Người truyền pháp ở Tây Vực cũng được nêu dẫn ở lời tựa của “Thiền kinh”. Hai vị Bà La Môn dịch kinh xong, cùng diệt độ một ngày và được an táng tại Lư Sơn tháp miếu mà ngày nay còn thấy.
Đạt Ma Đa La nghe tin hai người đệ tử đi hoằng hóa ở đất Hán không được người tin nhận, bèn vượt biển đến triều đình nhà Lương. Lương Võ Đế ra tận ngoài thành để cung đón, mời lên điện đường và hỏi rằng: “Hòa thượng từ nước kia sang, đã đem giáo pháp gì đến để hoằng hóa chúng sanh?”. Đạt Ma đại sư đáp: “Ta không đem một chữ Giáo nào đến!”. Vua lại hỏi: “Trẫm xây chùa giúp người đi tu, chép kinh và đúc tượng. Việc ấy có công đức gì?”. Đại sư đáp: “Không có công đức gì cả! Đây chính là các điều thiện hữu vi, không phải là công đức thật!”. Võ Đế vì căn khí phàm tình nên không hiểu, sư bèn từ giã ra khỏi nước. Trông về phương Bắc, thấy có căn khí Đại Thừa, đại sư đi đến triều Ngụy, ngụ ở Tung sơn và tiếp dẫn chúng sanh được sáu năm. Người học tụ đến như mây tuôn mưa đổ và đông như lúa mè tre sậy, nhưng chỉ có Huệ Khả đại sư là nắm được phần tủy của Ngài.
Lúc bấy giờ, tại Ngụy có Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi và luật sư Quang Thống tẩm độc trong thức ăn, rồi mang đến thết đãi đại sư. Đại sư ăn xong, bảo đem chậu tới mửa ra một thăng rắn. Lại lần khác thết đãi thức ăn tẩm độc, sư ăn xong, ngồi trên tảng đá to, chất độc thấm ra làm nứt cả tảng đá. Trước sau sáu lần đánh thuốc độc, đại sư bảo các đệ tử: “Ta đến đây vốn là để truyền pháp, nay đã có được người (Huệ Khả) truyền thừa, thì ở lâu nào có ích gì?”. Thế là đại sư truyền lại một chiếc cà sa để làm tin và nói với Huệ Khả: “Ta nhân việc truyền pháp mà bị ngộ độc, ngươi cũng không tránh khỏi nạn này. Pháp ta truyền đến đời thứ sáu, người được truyền pháp thì mạng như tơ treo”.
Nói xong, sư liền nhân ngộ độc mà qua đời. Ngày thường, sư thường tự nói: “Ta tuy năm nay 150 tuổi, nhưng thật cũng chẳng biết là mấy tuổi nữa!”. Đại sư nói: “Ở nước Đường, có ba người được pháp ta: Một người được tủy ta, một người được xương ta và một người được thịt ta. Được tủy ta là Huệ Khả, được xương ta là Đạo Dục và được thịt ta là Ni Tổng Trì”. An táng tại núi Hùng Nhĩ, đất Lạc Châu (nay là Hà Nam, huyện Lạc Dương).
Lúc ấy, Tống Vân nước Ngụy đi sứ gặp đại sư ở ngọn Thông Lãnh, tay quải một chiếc giày. Tống Vân hỏi: “Đại sư đi đâu?”. Đáp: “Ta trở về bổn quốc. Quốc vương của ngươi hôm nay qua đời”. Tống Vân liền ghi chép việc đó, rồi lại hỏi: “Đại sư nay ra đi, Phật pháp phó chúc cho ai ?”. Đáp: “Sau khi ta ra đi 40 năm, có một ông tăng người Hán, chính là người nối pháp vậy!”. Thế là Tống Vân trở về triều, vua cũ quả nhiên đã băng hà, vua mới vừa lên ngôi. Tống Vân bảo các triều thần: “Đại sư tay cầm một chiếc giày đi về nước Tây Vực. Ngài nói: Vua nước ông hôm nay mất. Thật đúng như điều đại sư đã nói”. Các triều thần đều chẳng tin, bèn cho đào mộ của đại sư, quả nhiên chỉ còn một chiếc giày!
Tiêu Lương Võ Đế tạo văn bia. Đệ tử có Bát Nhã Mật Đa La ở Tây quốc. Riêng ba người đệ tử ở nước Đường là Đạo Dục, Ni Tổng Trì và Huệ Khả thì chỉ có Huệ Khả là người thừa y đắc pháp.
Thiền sư Huệ Khả triều Bắc Tề là Tổ thứ hai, họ Cơ, người ở Võ Lao. Lúc 40 tuổi, thiền sư vâng thờ đại sư Đạt Ma sáu năm, trước có tên là Thần Quang. Buổi đầu vâng thờ đại sư, thiền sư suốt đêm đứng trước Ngài. Đêm hôm ấy, tuyết rơi nhiều, ngập đến thắt lưng, nhưng vẫn không dời chỗ. Đại sư nói: “A này, ngươi cầu pháp thì không tham tiếc thân mạng”. Thần Quang liền chặt đứt một cánh tay, tuôn ra sữa trắng. Đại sư liền mặc truyền tâm khế và trao cho Thần Quang một chiếc cà sa. Đại sư nói: “Ta nhân ở đây mà bị ngộ độc, ngươi cũng không tránh khỏi, phải khéo tự bảo hộ lấy!”. Huệ Khả đại sư hỏi: “Pháp này của hòa thượng ở Tây Vực, người nào sau khi được thừa kế thì cũng được truyền cà sa để làm tin chăng?”. Đại sư đáp: “Người ở nước Tây Vực rất kính tin, không có giả dối. Người mà ta kế thừa là Bát Nhã Ba La Mật Đa La. Sự truyền thừa sau nầy sẽ không còn truyền y nữa. Chúng sanh ở nước Đường có căn tánh Đại Thừa, dõi nối được đạo quả nên phải truyền cà sa để làm pháp tin; ví như ai rưới nước trên đảnh của Chuyển Luân vương tử thì được bảy món báu chân thật mà nối thạnh ngôi vua. Còn người được y này thì tiêu biểu cho chánh pháp đã truyền nối nhau”.
Đại sư Huệ Khả sau khi được phó chúc, ở ẩn tại hai châu Lạc Tương và Nghê Sơn trong 40 năm, về sau tiếp dẫn quần sanh, kẻ đạo người tục theo về không kể xiết! Trải qua 20 năm trong lúc khai hóa, có loạn nạn dấy lên, lại bị loạn đảng của Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi và luật sư Quang Thống muốn làm tổn hại đại sư Huệ Khả, sư phó chúc thiền pháp cho Tăng Xán xong, bèn vào ở ẩn trong núi Tư Không. Huệ Khả đại sư sau này giả vờ điên, ở ngã tư thành thị mà thuyết pháp. Chúng nhân nghe rất đông. Bọn đồ đảng của Bồ Đề Lưu Chi tâu lên vua, tố cáo Huệ Khả đại sư là yêu tinh quái dị. Vua ra lệnh cho quan sở ti xét hỏi đại sư Huệ Khả. Huệ Khả đại sư đáp: “Vâng, ta thật là yêu!”. Quan sở ti biết đám kia đố kỵ, ra lệnh cho Huệ Khả đại sư hãy nói lại thì Ngài cũng đáp xác thực rằng Ngài thật là yêu quái. Quan sở ti bèn ra lệnh cho quan huyện Thành An tên Địch Xung Khản y theo pháp mà xử hình. Đại sư Huệ Khả bảo chúng nhân rằng: “Pháp của ta truyền đến Tổ thứ tư thì hóa thành danh tướng”. Nói xong, Ngài đau buồn rơi lệ, bèn thị hình, thân tuôn ra sữa trắng, màu thịt vẫn như thường. Khi ấy, quan sở ti mới tâu lên vua. Vua nghe xong, ăn năn lỗi lầm, cho đấy đúng thật là Bồ tát ! Cả triều đình đều phát tâm, thế là Phật pháp hưng thịnh trở lại ! Lúc ấy, sư được 107 tuổi. Phần mộ an táng tại huyện Thành An, đất Tương Châu, cách Hà Bắc 5 dặm; phía Đông là Liễu Mãn, cách mộ 100 bộ; 15 dặm về phía Tây Nam là Ngô Nghê Tào Khẩu. Bộ “Lăng già dĩnh đô cố sự” chép đầy đủ.
Đệ tử Tăng Xán là người được truyền y đắc pháp. Về sau, Thích Pháp Lâm tạo ra văn bia.
Tổ thứ ba triều nhà Tùy là Tăng Xán, không biết người xứ nào. Ban đầu, khi mới gặp Huệ Khả đại sư, Tăng Xán thị hiện chứng bệnh đại phong, ở tại chúng mà tìm gặp Huệ Khả đại sư. Huệ Khả đại sư hỏi: “Ngươi từ nơi nào đến, nay cần việc gì?”. Tăng Xán đáp: “Con cố đến để nương thân nơi hòa thượng”. Đại sư nói : “Ngươi có bệnh đại phong, gặp ta nào có ích gì?”. Tăng Xán đáp: “Thân tuy có bệnh, nhưng tâm người bệnh và tâm hòa thượng thì không có sai khác!”. Đại sư biết Tăng Xán là người phi thường, bèn phó chúc pháp và cà sa để làm tin. Đại sư nói: “Ngươi phải khéo tự bảo hộ. Ta có nạn, ngươi phải lánh đó nghe!”. Tăng Xán đại sư cũng giả vờ điên nơi thị trấn, sau ẩn tại núi Tư Không ở Thơ Châu. Gặp thời Châu Võ Đế diệt Phật pháp, sư ở ẩn hơn 10 năm tại núi Nghê Công. Phía Bắc của núi này, phần nhiều là thú dữ, thường làm tổn hại người ở đấy, nhưng từ khi đại sư Tăng Xán đến thì chúng đều dời đi nơi khác. Ngài phó chúc pháp và cà sa cho Đạo Tín.
Thời sau này, có thiền sư Nghê, thiền sư Nguyệt, thiền sư Định và thiền sư Nghiễm đi đến chỗ đại sư Tăng Xán và nói rằng: “Sau khi Đạt Ma tổ sư phó chúc thì chính ông Xán quả thật là Ngọc Thần vậy! Định huệ đều dụng đủ, sâu xa không thể nghĩ bàn”. Tăng Xán đại sư bèn cùng với các thiền sư ấy đến núi La Phù ẩn cư ba năm. Về sau, đến kỳ đại trai hội, sư ra bảo chúng nhân rằng: “Nay, ta muốn ăn!”. Các đệ tử dâng thức ăn. Đại sư ăn xong, bảo mọi người rằng: “Mọi người đều xuýt xoa cho rằng ngồi qua đời là chuyện lạ, chỉ có ta mới tự do sanh tử!”. Nói rồi, đại sư một tay vịn cành cây trong hội, đứng an nhiên mà qua đời, cũng không biết là mấy tuổi! Tháp miếu ở bên cạnh chùa Nghê Sơn.
Đệ tử rất đông, nhưng chỉ có đại sư Đạo Tín là người được truyền y đắc pháp thừa hậu. Ông Tiết Đạo Hành soạn văn bia.
Thiền sư Đạo Tín là Tổ thứ tư triều Đường, họ Tư Mã, người đất Hà Nội, xuất gia từ tấm bé, nương thờ đại sư Tăng Xán. Đại sư biết Ngài là bậc pháp khí đặc biệt, ngày đêm thường ngồi không nằm; hơn sáu mươi năm, hông chưa hề dính chiếu, uy thần kỳ lạ, mắt thường nhắm không nhìn; nếu muốn nhìn ai, người đó phải sững sờ sợ hãi! Vào năm Đại Nghiệp, đại sư Đạo Tín ở xa trông thấy xứ Kiết Châu có giặc dữ bao vây thành, đã hơn 100 ngày, suối giếng khô cạn. Đại sư bèn vào thành khuyến dụ kẻ đạo người tục, khiến phải hành Bát Nhã Ba La Mật. Thế là giặc dữ tự rút lui, nước suối giếng trong thành lại chảy vọt ra, người theo học đạo rất đông. Đại sư Đạo Tín trông thấy từ xa nơi núi Phá Đầu, đất Huỳnh Mai, xứ Tân Châu, có tán mây màu tía, bèn ở núi ấy, sau đổi lại là núi Song Phong.
Năm Trinh Quán thứ 17, Hoàng đế Văn Vũ sai sứ đến núi Song Phong để thỉnh thiền sư Đạo Tín vào cung nội. Đạo Tín thiền sư lấy cớ tuổi già, từ chối không đi. Sứ giả trở về gặp vua tâu rằng: “Thiền sư Đạo Tín từ chối vì tuổi già nên không đi”. Vua lại sai sứ thỉnh một lần nữa. Người sứ đến chỗ thiền sư, nói rằng: “Vâng theo sắc lệnh vua sai thỉnh thiền sư”. Thiền sư lại từ chối, vì tuổi già nên không đi và nói với sứ giả rằng : “Nếu muốn lấy đầu ta thì mặc tình chặt mà đem đi, chứ lòng ta không chịu đi!”. Sứ giả trở về triều kiến và tâu vua rằng: “Cần đầu thì mặc ý chặt đem đi, chứ sư một lòng không chịu đi!”. Vua lại sai sứ mang đao đến giả vờ lấy đầu của thiền sư, vua còn căn dặn thêm là chớ nên làm tổn thương đến hòa thượng. Người sứ đến chỗ của hòa thượng, nói: “Vâng lệnh vua, xin lấy cái đầu của hòa thượng. Vậy thiền sư có chịu đi hay không?”. Hòa thượng đáp: “Ta dứt khoát không đi!”. Sứ giả nói: “Vâng lệnh vua, nếu thiền sư không đi thì tôi chặt đầu mang đi”. Đạo Tín thiền sư nghiêng đầu ra mà nói rằng: “Hãy chặt lấy!”. Sứ giả rút đao lại. Đạo Tín thiền sư nạt lớn rằng: “Sao không chịu chặt đi, còn đợi đến lúc nào nữa?”. Sứ giả nói: “Vâng lệnh vua không cho làm tổn thương đến hòa thượng”. Thiền sư Đạo Tín cười lớn: “Dạy ngươi biết nơi đây có người đấy!”.
Về sau, thiền sư Đạo Tín làm lớn Phật sự, rộng mở pháp môn, tiếp dẫn quần phẩm, bậc “Long tượng” bốn phương đều đến nhận quy y. Qua hơn 30 năm, chỉ có Hoằng Nhẫn là người vâng thờ đắc ý. Tổ phó chúc pháp và cà sa cho Hoằng Nhẫn xong, bèn sai đệ tử là sư Nguyên Nhất: “Hãy tạo ra một cái khám rồng bên sườn núi cho ta, nhưng phải sớm hoàn thành”. Sau đó, sư hỏi khám rồng xong chưa, sư Nguyên Nhất đáp: “Công việc xong rồi!”. Vào ngày nhuần 24 tháng 9 năm Vĩnh Huy thứ 2, đại sư vốn không đau ốm, lại an nhiên tọa hóa.
Năm ấy, sư được 72 tuổi. Sau khi an táng giáp năm, cửa đá vô cớ tự mở, dung mạo của đại sư trang nghiêm chẳng khác ngày thường. Nhóm ngài Hoằng Nhẫn thấy lại uy nghi thần kỳ, không khỏi cảm động, liền đem quấn vải sơn phết khắp tôn dung, rồi từ đó về sau không đóng tháp nữa.
Đệ tử rất đông, nhưng chỉ có đại sư Hoằng Nhẫn là người được truyền y đắc pháp để thừa kế về sau. Quan Trung thư lệnh Đỗ Chánh Luận soạn ra văn bia.
Thiền sư Hoằng Nhẫn là Tổ thứ năm triều Đường, họ Châu, ở Hoàng Mai. Bảy tuổi Ngài vâng thờ đại sư Đạo Tín; 13 tuổi thì vào đạo đắp y. Tánh Ngài rất mộc mạc, nói năng trầm hậu quê mùa, luôn bị đồng học khinh thường chọc ghẹo, nhưng sư vẫn im lặng không đáp, thường siêng năng làm việc và lấy lễ khiêm hạ mà đối với người. Ban ngày, sư hòa mình chịu sai biểu; đêm đến thì ngồi nhiếp niệm đến sáng mà chưa từng lười mỏi. Qua 30 năm, sư thường sát cánh bên đại sư Đạo Tín. Thân cao 8 thước (Tàu), vẻ mặt khác hẳn người thường. Sau khi được phó pháp và truyền cà sa, sư ở núi Phùng Mậu, cách phía Đông núi Song Phong chẳng xa. Người đời gọi là Đông Sơn pháp môn, chính là núi Phùng Mậu, chứ chẳng phải là Tung Sơn!
Lúc ấy, có giặc dữ là Khả Đạt, Hàn Nô Lục… bao vây Châu Thành mấy vòng, không có lối vào, chim bay cũng chẳng thông. Từ xa nhìn thấy đại sư mới đến thành, lũ giặc tan tác rút lui. Chúng nói: “Có vô lượng Kim Cang thần cầm chùy đuổi theo chúng tôi, trợn mắt nghiến răng, nên bọn tôi phải tháo chạy”. Sau đó, Hoằng Nhẫn đại sư liền trở về núi Phùng Mậu.
Năm Hiển Thánh thứ 5, Đại đế ban sắc sai sứ sang đạo tràng Hoàng Mai ở núi Phùng Mậu để thỉnh Hoằng Nhẫn đại sư, nhưng đại sư không đến nơi thỉnh. Vua lại ban sắc sai sứ đến thỉnh một lần nữa, nhưng sư cũng không đến. Vua bèn sai ban cho y phục, thuốc men… đem đến núi Phùng Mậu mà cúng dường. Sau hơn 40 năm tiếp dẫn kẻ đạo người tục, bậc “Long tượng” bốn phương kéo về nương tựa. Đại sư phó chúc pháp và cà sa cho Huệ Năng.
Sau, đến năm Hàm Hưởng thứ 5, Ngài sai đệ tử là sư Huyền Trách: “Hãy dựng tháp cho ta!”. Đến ngày 14 tháng 2, sư hỏi tháp xong chưa. Đáp: “Xong rồi!”. Đại sư nói: “Không thể bát Niết Bàn ngày 15 tháng 2 cùng ngày với Phật được !”. Sư lại nói: “Ta một đời dạy người vô số. Ngoài Huệ Năng ra, còn có 10 người nữa là sư Thần Tú, sư Trí Sân, sư Nghĩa Phương, sư Trí Đức, sư Huyền Trách, sư Lão An, sư Pháp Như, sư Huệ Tạng, sư Huyền Ước và Lưu Chủ Bạc. Tuy ai cũng không lìa xa ta, nhưng mỗi người các ngươi vẫn là thầy của một phương vậy!”. Sau, đến ngày 11 tháng 2 năm Thượng Nguyên thứ 2, sư an nhiên tọa hóa. Năm ấy, Hoằng Nhẫn đại sư được 71 tuổi.
Đệ tử Huệ Năng là người truyền y đắc pháp kế thừa sau đó. Học sĩ Lữ Khâu Quân soạn ra văn bia.
Tổ thứ sáu triều Đường ở Tào Khê – Thiều Châu, là thiền sư Huệ Năng, họ Lư, người đất Phạm Dương. Cha làm quan ở ngoài Ngũ Lãnh, sư theo cùng, sau ngụ ở Tân Châu. Năm 22 tuổi, sư đến núi Phùng Mậu tham lễ với đại sư Hoằng Nhẫn. Đại sư hỏi: “Ngươi từ nơi nào đến?” Huệ Năng đáp: “Con từ Tân Châu đến, chỉ cầu làm Phật”. Đại sư nói: “Ngươi ở Tân Châu là dân mọi Cát Liêu, làm Phật thế nào được!”. Huệ Năng đáp: “Thân tuy là Cát Liêu, nhưng Phật tánh nào có khác chi hòa thượng!”. Đại sư biết khả năng của Lư hành giả, muốn cùng Ngài nói thêm ít điều, nhưng vì mọi người ở hai bên quá đông, bèn bảo Huệ Năng hãy theo chúng mà đạp chày giã gạo. Suốt tám tháng, tiếng chày vẫn đều đặn, không thay đổi. Hoằng Nhẫn đại sư liền gỏ lên trên cối, nói mí. Huệ Năng liền kiến tánh. Trong đêm ấy, Tổ ngầm gọi vào phòng, ba ngày ba đêm cùng đàm luận, rồi phó chúc pháp và cà sa. Tổ nói: “Ngươi được làm đại sư ở thế giới này, ngươi phải đi gấp!”. Rồi đích thân đại sư Hoằng Nhẫn đưa đi, qua trạm Cửu Giang, Ngài nhìn đò sang sông lớn rồi mới quay trở lại. Các môn đồ đều không biết sư đã phó pháp và cà sa cho Huệ Năng.
Sau đó ba hôm, đại sư bảo các đệ tử: “Các ngươi nên tản đi! Trong chốn đây không có Phật pháp, Phật pháp đã truyền về Lãnh Nam rồi!”. Mọi người đều sững sờ và thay nhau hỏi: “Lãnh Nam có ai?”. Sư Pháp Như ở Lộ Châu đáp: “Huệ Năng ở đấy!”. Mọi người đều ùa đi về đó. Trong những người đó, có một tướng quân bậc tứ phẩm bỏ quan vào đạo, tự là Huệ Minh, đã từ lâu ở hầu cận bên đại sư, nhưng chưa được khế ngộ, nghe đại sư nói lời này, liền sớm tối đi mau gấp đôi đoạn đường. Đến trên đảnh Đại Bửu, Huệ Minh gặp được thiền sư Huệ Năng. Thiền sư quýnh quá sợ rằng sẽ không bảo toàn được tánh mạng, bèn đem áo cà sa được truyền lại đưa cho Huệ Minh. Huệ Minh nói rằng: “Tôi vốn chẳng vì chiếc cà sa mà đến. Hôm đại sư Hoằng Nhẫn đưa Ngài đi, có lời chỉ dạy gì không? Xin nói lại cho tôi nghe với!”. Thiền sư Huệ Năng kể hết tâm pháp để giúp Huệ Minh đạt thẳng kiến tánh. Thiền sư Huệ Minh nghe xong, liền chắp tay đảnh lễ, rồi đưa thiền sư Huệ Năng gấp đi qua ngọn núi.Phía sau, có rất nhiều người đuổi tới. Thiền sư Huệ Minh về sau ở núi Tượng. Đệ tử ở cửa Ngài cũng chỉ khán tịnh. Thiền sư Huệ Năng đến Tào Khê – Thiều Châu khai hóa hơn 40 năm. Kẻ đạo người tục đến đông đầy.
Sau, đến năm thứ 2 niên hiệu Cảnh Vân triều Đường, Ngài sai đệ tử Lập Giai xây tháp tại Long Sơn – Tân Châu. Đến năm đầu niên hiệu Thiên Nguyên, Ngài hỏi xây tháp xong chưa. Đáp: “Đã xong”. Tháng 9 năm ấy, Ngài từ Tào Khê về đến Tân Châu. Các vị tăng ở Tào Khê là nhóm các sư Lập Giai, Trí Hải… hỏi hòa thượng về sau ai là người đắc pháp và được truyền tín y cà sa để kế thừa. Hòa thượng đáp: “Các ngươi chớ hỏi! Sau này, tai nạn sẽ dấy lên nhiều lắm! Ta nhân do cà sa này mà mấy lần suýt mất mạng. Cà sa khi ở nơi đại sư Đạo Tín, ba lượt bị lấy trộm; khi ở đại sư Hoằng Nhẫn, cũng ba phen bị trộm cắp; khi đến chỗ của ta thì sáu lần bị lấy cắp; nhưng rốt cuộc thì không có người nào lấy trộm được, vì cà sa của ta nay người nữ đã đem đi rồi (ý chỉ Võ Tắc Thiên), nên đừng có hỏi ta nữa! Các ngươi nếu muốn biết được pháp của ta thì sau khi ta diệt độ ngoài 20 năm, kẻ nào vững lập tông chỉ của ta thì kẻ đó chính là người đắc pháp vậy!”.
Đến năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên, Ngài chợt bảo các đệ tử: “Ta sắp đi xa rồi!”. Đêm mồng 3 tháng 8, Ngài an nhiên tọa hóa. Đại sư trải qua 76 xuân thu. Lúc ấy, nguồn khe Tào Khê bặt đứt dòng chảy, suối ao khô cạn, vầng nhật nguyệt tối mờ, rừng cây biến màu trắng toát, mùi hương lạ chan hòa ba ngày không dứt. Cùng năm ấy, ở chùa Quốc Ân, xứ Tân Châu, đón rước thần tòa của hòa thượng; đến tháng 11 thì an táng tại Tào Khê.
Thừa Vi Cứ, chùa Thái Thường, tạo văn bia; đến năm thứ 7 niên hiệu Khai Nguyên thì bị người mài sửa lại và tạo ra bia khác. Đời gần đây, Báo Tu Thị Lang Tống Đảnh soạn ra văn bia.
(Sửa chữa in lại “Lịch đại pháp bảo ký” quyển thượng)
SÁCH “LỊCH ĐẠI PHÁP BẢO KÝ”
QUYỂN TRUNG
(Kê Lâm Kim Cửu kinh, Minh Thường hiệu đính)
Ba trăm năm từ khi Phật giáo lưu truyền sang Đông Độ, trước đó đều không có sự tướng phép tắc. Sau, nhân thời Thạch Lặc đời Tấn, có pháp sư Đạo An vốn là đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng, ở đất Tương Dương. Chúa Tần Phù Kiên xa nghe đồn tiếng tăm của pháp sư Đạo An, bèn sai sứ đến vùng Tương Dương để chiếm lấy pháp sư. Chúa Tần đãi ngộ kính trọng pháp sư. Các con em nhà giàu sang quyền quý ở Trường An muốn làm thi phú ngâm vịnh đều nương theo học hỏi. Kẻ không theo pháp sư Đạo An nêu nghĩa lý không đúng, gặp khó khăn vậy! Đó đúng là bậc trí biện thông tuấn.
Sau, Ngài lại giảng nói ra chương môn để làm khuôn phép cho tăng ni. Đó là hiến chương Phật pháp, là phép tắc thọ giới, được chia làm ba điều lệ :
- Hành hương định tọa hằng ngày.
- Sáu thời lễ sám hằng ngày.
- Mỗi tháng sám hối Bố tát.
Các điều sự tướng, oai nghi, pháp sư, chú nguyện và tán thán đều từ pháp sư Đạo An mà ra. Thời cận đại, có Thục tăng, nối dòng pháp của An pháp sư, làm ra bộ “Trai văn” bốn quyển, hiện nay vẫn còn lưu hành.
Kinh Lăng Già chép:
Cho đến có chỗ lập
Tất cả đều lầm loạn
Nếu thấy ở tự tâm
Ấy là không trái nghịch.
Lại chép:
Nếu y chỉ thiểu pháp
Thì có thiểu pháp khởi
Nếu y chỉ nơi sự
Pháp này liền hoại diệt.
Lại chép:
Theo lời mà chọn nghĩa
Kiến lập ở các pháp
Do cớ kiến lập ấy
Chết đọa trong địa ngục.
Lại chép:
Tìm ta trong giáo lý
Là dối lìa nhơ ác
Lìa thánh giáo chánh lý
Dục diệt lại tăng thêm
Là lời cuồng ngoại đạo
Người trí không nên nói.
Kinh Kim Cang chép:
Lìa tất cả mọi tướng
Liền gọi là Phật pháp.
Lại chép:
Kẻ dùng sắc để thấy ta
Dùng âm thanh tìm ta
Là người đi lệch đường
Không thể gặp Như Lai.
Kinh Tư Ích chép: “Này tỳ kheo, thế nào là theo giáo pháp Phật và thế nào là theo lời Phật?”. Đáp: “Nếu gặp lời khen ngợi hay chửi bới làm nhục mà tâm ấy không động là vâng theo giáo pháp Phật, còn không nương theo văn tự lời lẽ là vâng theo lời Phật dạy”. “Tỳ kheo, thế nào là đáng nhận sự cúng dường?”. Đáp: “Người không chấp thủ bất cứ thứ gì nơi pháp”. “Thế nào là tiêu trừ được vật cúng dường?”. Đáp: “Không bị thế pháp lôi dắt”. “Ai là người báo ân Phật ?”. Đáp: “Người nương theo pháp tu hành”. Thiền Tiểu Thừa và các pháp môn tam muội chẳng phải là tông chỉ của tổ sư Đạt Ma liệt kê như quán xương trắng, quán hơi thở, quán chín tướng trạng của thi thể, quán ngũ đình tâm, quán mặt trời, quán mặt trăng, quán lâu đài, quán ao và quán Phật.
Bộ kinh Thiền Bí Yếu chép: “Người bị bệnh nóng thì quán tưởng lạnh, bị bệnh lạnh thì quán tưởng nóng. Người ham thích sắc tướng thì quán tưởng rắn độc. Người ham thích ăn uống ngon thì quán tưởng giòi rắn. Người ham y phục thì quán sắt nóng quấn thân. Ngoài ra, còn các thứ quán tam muội khác”.
Kinh Thiên Môn chép: “Trong lúc tọa thiền, quán tưởng hoặc thấy được hình tượng Phật có 32 tướng tốt, các thứ ánh sáng chói rạng bay lượn trên không, biến tướng tự tại là chân thật ư? Là hư dối ư?”. Phật dạy: “Tọa thiền là thấy hư không chẳng có vật. Nếu thấy 32 tướng tốt của Phật, các thứ ánh sáng rạng rỡ bay hiện trên không, biến hóa tự tại đều là điên đảo ở tự tâm, bị lưới ma trói buộc, ở trong cảnh rỗng không vắng lặng mà lại thấy những việc như thế thì tức là hư dối”.
Kinh Lăng Già chép: “Thấy các thứ tướng như thế là bị rơi vào kiến chấp của ngoại đạo”.
Kinh Pháp Cú chép:
Nếu học các tam muội
Là động, chẳng phải thiền
Tâm trôi dạt theo cảnh
Sao được gọi là định?
Kinh Kim Cang Tam Muội chép: “Ta không vào trong tam muội, không trụ trong tọa thiền, vô sanh vô hành, chẳng động chẳng thiền. Đó mới gọi là thiền vô sanh”.
Kinh Tư Ích chép:
Không nương tựa cõi dục
Không tựa cõi sắc, vô sắc
Hành thiền định như thế
Là khắp hạnh Bồ tát.
Kinh Duy Ma chép: “Cư sĩ Duy Ma Cật trách Xá Lợi Phất ở giữa rừng rảnh rang (yến tọa), trách Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp không bình đẳng”.
Kinh Chuyển Nữ Thân chép: “Nữ Vô Cấu Quang trách trời Đế Thích là hàng Thanh văn thừa các ông sợ sanh tử và vui ưa Niết Bàn”.
Kinh Quyết Định Tỳ Ni chép: “Hàng Bồ tát thừa sợ sanh trì “khai thông giới”, còn hàng Thanh văn thừa trì “tận giá giới” và “tận hộ giới”.
Kinh Dược Sư chép: “Phật quở A Nan: Hàng Thanh văn các ngươi như đui như điếc, không biết rõ nghĩa không vô thượng”.
Kinh Phật Đảnh chép: “Trách hàng Thanh văn được ít mà đã cho là đủ!”.
Kinh Phật Tạng chép: “Này Xá Lợi Phất, khi Như Lai còn ở đời thì Tam Bảo chỉ có một vị, nhưng sau khi ta diệt độ thì sẽ chia ra làm 5 bộ. Lại nữa, Xá Lợi Phất, ác ma giờ đây vẫn đang còn ẩn thân và giúp cho Điều Đạt phá chánh pháp và tăng đoàn của ta. Do Như Lai là bậc đại trí tuệ còn ở đờ, nên ngăn che các ác ma biến thân giả dạng làm sa môn hàng hàng lớp lớp trà trộn vào tăng đoàn, bày ra các thứ tà thuyết khiến cho nhiều chúng sanh rơi vào tà kiến và nói tà pháp. Lúc bấy giờ, kẻ ác bị ma làm mê mờ, đều chấp vào sở kiến của mình, rồi cho ta phải người quấy. Này Xá Lợi Phất, Như Lai dự kiến trong đời sau có việc phá pháp như thế, cho nên nói ra kinh thâm sâu này để dứt tuyệt mọi chấp trược của ác ma. Này A Nan, ví như kẻ giặc ác ở nơi vua hoặc đại thần, tự mình không dám lộ hình; kẻ trộm vật của kẻ khác cũng không dám tự nhận mình là trộm. Như thế đó, A Nan, hạng tỳ kheo phá giới thì chỉ thành tựu được pháp của kẻ phi sa môn, tự mình còn không dám nói mình chính là kẻ ác thì huống chi là có thể hướng đến người khác để tự nhận tội của mình! A Nan, với kinh này, hạng tỳ kheo phá giới khi tuân nghe được thì có thể tự hàng phục và sanh ra hổ thẹn; còn hạng tỳ kheo giữ giới thì tự mình được tăng trưởng”.
Kinh Đại Phật Đảnh chép: “Ngay trong lúc ấy, Đức Như Lai bảo khắp đại chúng và A Nan rằng : Hàng Thanh văn, duyên giác hữu học, hôm nay phải hồi tâm để rảo về quả Diệu giác Vô thượng Đại Bồ Đề. Ta nay đã nói pháp môn tu hành chân chính. Do các ngươi chưa biết Tu Xà Na Tha và Tỳ Bà Xá Na hiện ra cảnh giới nhỏ nhiệm ở trước, do các ngươi chẳng biết được pháp rửa sạch tâm không chân chính nên bị rơi vào tà kiến, hoặc bọn ma năm uẩn, hoặc phú thiên ma, hoặc quỷ thần, hoặc gặp ly mị, trong tâm không tỏ ngộ rồi nhận giặc làm con. Lại trong đó, được ít mà cho là đủ, như tỳ kheo không nghe thiền thứ tư dối nói chứng xong thánh thiền báo tướng suy hiện ra, phỉ báng A La Hán. Thân sau khi gặp nạn, lại bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Cho nên, Đức Thích Ca Như Lai truyền cà sa Kim Lan, sai Ma Ha Ca Diếp vào núi Kê Túc, đợi khi Thế Tôn Di Lặc hạ sanh mà giao phó. Nay đời ác trược, người học thiền rất đông, nên tổ sư Đạt Ma của chúng ta bèn truyền cà sa để nêu bày giáo pháp chân chính của Phật – Tổ khiến cho đàn hậu học có chỗ để bẫm thừa vậy!
Đại sư Hoằng Nhẫn khi còn ở núi Phùng Mậu, huyện Hoàng Mai, rộng mở pháp môn để tiếp dẫn quần phẩm. Ngay khi ấy, người học đạo có đến hơn muôn ngàn, đều là bậc thăng đường nhập thất. Trong đó, gần gũi sát cánh tả hữu vâng thờ không lìa Hoằng Nhẫn đại sư thì chỉ có mười người: Trí Sân, Thần Tú, Huyền Trách, Nghĩa Phương, Trí Đức, Huệ Tạng, Pháp Như, Lão An, Huyền Ước và Lưu Chủ Bạc. Tất cả đều là bậc lãnh tụ chốn quan trường và danh tăng trong cả nước, thảy đều tự cho mình là bậc Long tượng. Nhân vì cho mình là thế, mới biết họ không phải thế!
Chợt có người xứ Tân Châu, họ Lư, tên Huệ Năng, năm 22 tuổi đến bái yết đại sư Hoằng Nhẫn. Đại sư hỏi: “Ngươi từ đâu đến và ý muốn việc gì?”. Huệ Năng thưa rằng: “Con từ Lĩnh Nam đến. Ý cũng không muốn việc gì khác, chỉ mong làm Phật!”.
Đại sư biết đây là bậc khác thường, nhưng vì thấy xung quanh đông người nên hỏi trớ: “Ngươi có thể theo chúng làm việc được chăng?”. Huệ Năng thưa: “Thân mạng đây còn không tiếc, sá gì chuyện làm việc!”. Nói xong, Huệ Năng theo chúng đạp cối đá giã gạo trong tám tháng. Đại sư biết căn cơ của Huệ Năng đã chín muồi, mới âm thầm gọi Huệ Năng đến phó pháp và trao lại cà sa làm tin mà mình được truyền trước đây, rồi bảo Huệ Năng phải đi khỏi xứ này ngay!. Sau, Huệ Năng sợ mọi người biết được nên thường ẩn ở núi rừng, có lúc tại Tân Châu, khi thì tại Thiều Châu, 17 năm sống trong thế tục, lại cũng chẳng thuyết pháp. Sau, Huệ Năng lại đến chùa Chế Tâm ở Hải Nam, gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn, Huệ Năng cũng nghe dưới tòa. Lúc đó, Ấn Tông hỏi đại chúng: “Các ngươi có thấy gió thổi lá phướn lay động ở trên đầu cột không?”. Đại chúng đáp: “Thấy động!”. Rồi có người nói thấy gió động, hoặc có người nói thấy phướn động, lại có kẻ nói chẳng phải động mà là thấy động. Họ cứ vặn vẹo nhau mãi như thế mà không phân định được!
Huệ Năng đang ở dưới tòa, liền thưa với pháp sư: “Chính cái tâm vọng tưởng của đại chúng dấy động, vì động với chẳng động không phải do ở chỗ thấy lay động. Pháp vốn không có động cùng bất động”.
Pháp sư nghe nói thế, liền kinh ngạc sững sờ, không biết lời ấy là thế nào, liền hỏi: “Cư sĩ từ đâu đến?”.
Huệ Năng thưa: “Xưa giờ không đến, nay cũng không đi !”.
Pháp sư bước xuống tòa, thỉnh Huệ Năng vào phòng hỏi han kỹ lưỡng. Huệ Năng nói rõ Phật pháp Đông Sơn, cả việc có phó chúc cà sa bên mình.
Ấn Tông pháp sư thấy cà sa, bèn đầu mặt đảnh lễ và tán thán rằng: “Ngờ đâu dưới tòa lại có Đại Bồ tát hồi nào không hay!”. Nói xong, pháp sư lại đảnh lễ, rồi thỉnh Huệ Năng làm hòa thượng. Còn mình tự xưng là đệ tử, đoạn cạo tóc đắp y cho Huệ Năng, rồi bảo từ hàng đệ tử ruột cho đến môn đồ ở dưới hội với lời tán thán rằng :“Lành thay! Pháp của đại sư Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai gần đây nghe nói đã truyền về Lĩnh Nam, nào ngờ nay lại ở chốn này, các ngươi có biết không?”. Mọi người đều thưa là không biết.
Pháp sư Ấn Tông nói: “Pháp mà ta thuyết giảng giống như ngói sạn. Nay có thiền sư Huệ Năng truyền bá pháp môn của đại sư Hoằng Nhẫn giống như vàng ròng, sâu xa không thể nghĩ bàn!”.
Ấn Tông pháp sư hướng dẫn đồ chúng đảnh lễ dưới chân thiền sư Huệ Năng, rồi sợ mọi người nghi ngờ, bèn xin Huệ Năng đem y cà sa được truyền làm tin ra cho mọi người xem và tự thân thọ giới Bồ tát. Pháp sư Ấn Tông cùng đại chúng đưa thiền sư Huệ Năng về Tào Khê để tiếp dẫn chúng sanh và mở rộng thiền pháp. Thiên hạ đều nghe biết pháp ở Tào Khê thật không thể nghĩ bàn!
Sau đó, khi nhà Đại Châu thành lập, Võ Tắc Thiên lên ngôi, kính trọng Phật pháp. Đến năm đầu niên hiệu Trường Thọ, Võ Tắc Thiên mới ra lệnh cho các châu trong thiên hạ xây dựng chùa Đại Vân. Ngày 20 tháng 2, Võ Tắc Thiên sai sứ Thiên quan Lang trung Trương Xương Kỳ đến Tào Khê, xứ Thiều Châu, thỉnh thiền sư Huệ Năng. Huệ Năng lấy cớ bệnh không đi. Sau, đến năm đầu niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên, Võ Tắc Thiên lại sai sứ giả đến thỉnh Huệ Năng lần nữa và phán rằng, nếu Huệ Năng không đến thì xin hòa thượng trao truyền tín cà sa của tổ sư Đạt Ma đời trước để Võ Tắc Thiên lưu giữ ở đạo tràng trong cung cúng dường. Thiền sư Huệ Năng y theo lời thỉnh cầu, trao truyền tín cà sa của Đạt Ma tổ sư. Sứ giả ra về, mang theo tín cà sa. Hoàng đế Tắc Thiên thấy “truyền tín y cà sa” đến, lòng rất vui mừng, ở đạo tràng trong cung cúng dường. Đến tháng 7 năm thứ 2 niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên, Hoàng đế Tắc Thiên sai Thiên quan Lang trung Trương Xương Kỳ đến chùa Đức Thuần ở Tư Châu thỉnh thiền sư Trí Sân. Thiền sư Trí Sân tuân thụ lời thỉnh, đến kinh đô, vào trong nội đạo tràng để nạp thọ sự cúng dường. Đến năm Cửu Thị, Hoàng đế Tắc Thiên sai sứ đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu để thỉnh thiền sư Thần Tú, đến chùa Thọ Sơn – An Châu để thỉnh thiền sư Huyền Di, đến chùa Đại Vân – Tùy Châu để thỉnh thiền sư Huyền Ước, đến chùa Hội Thiện – Tung Sơn – Lạc Châu để thỉnh thiền sư Lão An vào đạo tràng của Võ Tắc Thiên để nhận sự cúng dường.
Trong những vị đại đức được Võ Tắc Thiên thỉnh mời, có Bà La Môn Tam Tạng, người nước Tây Trúc, là người được Tắc Thiên đặc biệt kính trọng. Thiền sư Trí Sân của Kiếm Nam thường bệnh nên nghĩ đến việc trở về cố hương, ngặt nỗi quan sơn cách ngăn xa xôi, cho nên lòng có chút ưu tư. Kẻ tà thông Bà La Môn nói: “Đó với đây có gì khác nhau đâu mà thiền sư phải nhớ quê hương?”. Trí Sân đáp: “Tam Tạng làm sao mà biết được?”. Đáp: “Thiền sư cứ thử gợi ý xem, không có điều gì mà tôi không biết!”. Trí Sân lại nói: “Hãy xem coi!”. Lúc đó, sư nghĩ lại hồi mình còn mặc y phục tục nhân, đứng ở Tào Môn chợ Tây nhìn ngó, vị Tam Tạng nói: “Đại đức là tăng nhân, cớ sao lại mặc quần áo tục lữ, nhìn ngắm trong chợ?”. Trí Sân khen: “Hay lắm!”, rồi bảo: “Hãy xem nữa đi!”. Lúc này, sư tưởng nghĩ đích thân đến chùa Thiền Định, đứng trên bánh xe vẽ tượng Phật. Vị Tam Tạng lại nói: “Tăng nhân sao lại được trèo lên cao mà đứng?”. Trí Sân khen: “Người Hồi râu đỏ hay lắm! Giờ đây hãy xem lần cuối nhé!”. Đoạn ngay đương xứ nương theo pháp, tướng niệm đều không sanh. Vị Tam Tạng tìm kiếm trong tam giới, rốt cuộc lại không thấy được!
Do vậy, Bà La Môn Tam Tạng đem lòng kính ngưỡng, cúi lạy dưới chân Trí Sân và bạch hòa thượng rằng: “Không biết nước Đường có Phật pháp Đại Thừa. Nay tôi xin tự trách và sám hối thân tâm”.
Tắc Thiên thấy Tam Tạng quy y thiền sư Trí Sân, bèn hỏi các đại đức: “Các ngài hòa thượng có lòng dục không?”. Các ngài Thần Tú, Huyền Ước, Lão An và Huyền Di đều nói không có dục. Tắc Thiên hỏi Trí Sân: “Hòa thượng có lòng dục không?”. Thiền sư Trí Sân sợ Tắc Thiên không buông cho về quê, nên chìu theo ý nữ hoàng và đáp là có dục. Tắc Thiên lại hỏi: “Sao mà có dục được?”. Trí Sân đáp: “Sanh tức có dục, không sanh tức không có dục”. Tắc Thiên ngay lời ấy lãnh hội. Lại nhân thấy Tam Tạng quy y Trí Sân, Hoàng đế càng thêm kính phục Ngài. Trí Sân nhân tiện tâu xin về quê, được Hoàng đế ban cho một bộ kinh Hoa Nghiêm mới dịch, một bức hình thêu Di Lặc và phướn hoa cùng tín cà sa của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma. Tắc Thiên nói: “Thiền sư Huệ Năng không đến. Chiếc cà sa đời trước xin hiến cho hòa thượng mang về cố hương, coi như cúng dường vĩnh viễn”.
Đến tháng 11 năm đầu niên hiệu Cảnh Long, Tắc Thiên lại sai sứ là Nội Thị tướng quân Tiết Giang đến trụ xứ của thiền sư Huệ Năng và tuyên khẩu dụ rằng: “Đem tín cà sa đời xưa trước kính phụng thiền sư Trí Sân thọ trì cúng dường, nay đặc biệt đem một chiếc cà sa Ma Nạp, 500 khúc lụa, sữa và thuốc men để cúng dường”.
Thiền sư Trí Sân, chùa Đức Thuần ở Tứ Châu, tục tánh Chu, người Nhữ Nam. Ông nội của Ngài làm quan đất Thục, Ngài đi theo. Tuổi vừa lên 10, Ngài đã ham thích đạo Phật, không ăn thức mặn tanh tưởi và cay nồng, ý chí cao xa, không cùng trẻ đồng lứa đùa bỡn. Năm 13 tuổi, sư từ giã cha mẹ vào đạo tràng. Ban sơ, sư thờ pháp sư Huyền Trang và học kinh luận. Sau, nghe đại sư Hoằng Nhẫn ở núi Song Phong, sư liền từ giã pháp sư Huyền Trang, bỏ kinh luận và theo đại sư Hoằng Nhẫn. Đại sư nói : “Ngươi có đầy đủ cả tính văn tự”. Sau, sư đến chùa Đức Thuần ở Tư Châu để hóa đạo chúng sanh, soạn bộ Hư Dung Quán 3 quyển, Duyên Khởi 1 quyển và Bát Nhã Tâm Sớ 1 quyển.
Sau, đến tháng 7 năm thứ 2 niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên, Hoàng đế Tắc Thiên sai Thiên quan Lang trung Trương Xương Kỳ đến chùa Đức Thuần để thỉnh sư về triều, nên sư liền tới Tây Kinh. Sau, nhân có bệnh, sư dâng biểu tâu lên Hoàng đế Tắc Thiên, được trở về chùa Đức Thuần, trước sau 30 năm hóa đạo chúng sanh. Tháng 6 năm thứ 2 niên hiệu Trường An, sư sai Xử Tịch phù trì chùa,rồi trao tín cà sa và nói rằng: Y này là cà sa do tổ sư Đạt Ma truyền lại, Hoàng đế Tắc Thiên ban cho ta. Nay ta trao lại cho ngươi, nên khéo bảo trì!”. Đến ngày 6 tháng 7 năm ấy , sư im lặng ra đi, thọ 94 tuổi.
Thiền sư Xử Tịch, người huyện Phù Thành, vùng Miên Châu, họ đời là Đường. Gia đình nhiều đời theo Nho học, thường tập thi lễ và chuộng hiếu hạnh. Năm lên 10 tuổi, cha qua đời, sư than thờ: “Trời đất vốn không, ta nghe pháp Phật khó thể nghĩ bàn, cứu khỏi khổ sanh tử”. Thế rồi sư theo hòa thượng Trí Sân. Hòa thượng hỏi: “Ngươi đến để làm gì?”. Đáp: “Quyết nương theo hòa thượng nên đến”. Hòa thượng biết đây là người phi thường. Ngày lên kinh đô, sư gánh đại sư đến kinh thành, một bên vai không đổi. Thân sư cao tám thước (Tàu), thần tình lẫm liệt. Khi sư đứng trong đám đông, người ta chỉ thấy đầu sư. Người xem đều khâm quý. Sau, sư trở về cư ngụ tại chùa Đức Thuần ở Tư Châu. Ngài hóa đạo chúng sanh hơn 20 năm.
Về sau, vào tháng 4 năm thứ 24 niên hiệu Khai Nguyên, Ngài ngầm sai gia nhân Vương Hoàng gọi thiền sư Vô Tướng ở Hải Đông (Triều Tiên), trao lại thiền pháp và tín cà sa, nói rằng: “Y này là y của tổ sư Đạt Ma, được Hoàng đế Tắc Thiên ban cho hòa thượng Trí Sân. Hòa thượng trao lại cho ta, nay ta trao lại cho ngươi. Ngươi phải khéo bảo trì và tìm núi tốt mà trụ đi!”.
Sau đó, đến ngày 27 tháng 5 năm ấy, Ngài nói với môn đồ: “Ta không trụ thế lâu nữa!”. Đến giờ Tý nửa đêm, Ngài im lặng ra đi ở tuổi 68.
Thiền sư Vô Tướng ở chùa Tịnh Tuyền, vùng Thành Đô, đạo Kiếm Nam, họ đời là Kim, vốn là hoàng thân của vua nước Triều Tiên. Gia tộc nhiều đời cư ngụ tại Hải Đông (bán đảo Triều Tiên). Khi xưa, tại nước mình (Triều Tiên), sư có cô em út. Vừa nghe có người đến dạm hỏi cưới, cô đã lấy dao tự rạch mặt và thề quyết theo chánh pháp. Hòa thượng thấy vậy, than rằng: “Con gái yếu đuối mà còn phong nhã và tiết tháo như thế ! Là đàn ông mạnh mẽ, ta há vô tâm sao?”. Sư bèn cắt tóc từ giã song thân, vượt biển qua hướng Tây rồi đến nước Đường, tầm sư hỏi đạo, dạo gót khắp nơi, rồi mới đến chùa Thuần Đức ở Tư Châu và tham bái Đường hòa thượng. Đường hòa thượng đang bệnh nên không ra gặp mặt. Sư liền đốt một ngón tay làm đèn và cúng dường Đường hòa thượng. Hòa thượng biết đây là người phi thường, bèn giữ lại bên mình trong hai năm. Sau, sư đến ở tại núi Thiên Cốc và không trở lại chùa Đức Thuần nữa.Đường hòa thượng sai gia nhân Vương Hoàng ngầm mang tín y cà sa trao cho sư và bảo rằng: “Cà sa là tín y của tổ sư Đạt Ma truyền lại. Hoàng đế Tắc Thiên ban cho hòa thượng Trí Sân. Ngài trao lại cho ta. Nay ta trao lại cho ngươi”. Sau khi được truyền pháp và tín cà sa, Kim hòa thượng bèn trụ ở dưới hang núi Thiên Cốc, ăn rau mặc lá, hết rau cỏ lại ăn cả đất, cảm hóa được thú dữ và khiến chúng bảo vệ mình.
Sau, đại phu Chương Cửu thỉnh cầu khai giảng thiền pháp, hòa thượng mới trụ ở chùa Tịnh Tuyền mà hóa đạo chúng sanh, trải hơn 20 năm. Sau đó, đến ngày 15 tháng 5 năm đầu niên hiệu Bảo Ứng, Kim hòa thượng bỗng nhớ đến thiền sư Vô Trụ ở núi Bạch Nhai. Hòa thượng nghĩ rằng: “Ta bệnh, đáng lý Vô Trụ phải đến thăm ta”. Sau đó, mấy lần Ngài hỏi kẻ tả hữu sao thiền sư Vô Trụ không đến trong khi tuổi tác Ngài đã cao, rồi ngầm sai gia nhân Đỗng Hác: “Ngươi hãy đem tín y và 17 món khác trao cho thiền sư Vô Trụ, bảo ông ta phải cố bảo trì. Nay chưa phải lúc xuống núi, hãy đợi năm ba năm nữa, khi nào nghe thiên hạ thái bình rồi hãy xuống”. Sau khi trao lại tín y, đến ngày 19 tháng 5, Ngài sai đệ tử đem y mới giặt sạch đến và bảo rằng Ngài muốn tắm gội. Đến giờ Tý nửa đêm, Ngài im lặng ra đi. Lúc đó, mặt trời và mặt trăng không có ánh sáng. Trời đất biến thành một màu tang. Cột cờ phan pháp gãy đổ, sông Thiền khô cạn, chúng sanh thất vọng, kẻ học đạo không nơi nương tựa.
Lúc ấy, đại sư đang ở tuổi 79. Mỗi năm, vào tháng Chạp và tháng Giêng, Kim hòa thượng cùng tứ chúng có hơn trăm ngàn vạn người thọ duyên, sắp xếp nghiêm trang chốn đạo tràng, ngồi trên tòa cao thuyết pháp, trước hết dạy cất tiếng niệm Phật, hết một hơi niệm, ngưng tiếng dừng niệm.
Ngài nói: “Mạc vọng, vô ức, vô niệm. Vô ức là giới, vô niệm là định, mạc vọng là huệ. Cả ba câu nói đó là cửa tổng trì”.
Ngài lại nói: “Niệm không dấy, giống như biết mặt kiếng có thể soi chiếu vạn tượng. Niệm dấy, như lưng kiếng, không thể soi thấy”.
Lại nói: “Phải biết cho rõ ràng. Khởi phải biết khởi, dứt phải biết dứt. Cái biết đó phải không gián đoạn thì đó là thấy Phật, giống như hai người cùng đi đến ở nước khác. Cha họ gởi thư dặn dò dạy dỗ. Một người được thư, sau khi đọc xong thì nghe theo lời dạy của cha mình, không dám làm việc sằng bậy phạm pháp. Một người cũng được thư, sau khi đọc xong thì không nghe theo lời cha dạy dỗ, làm nhiều điều ác. Tất cả chúng sanh nếu kẻ nào y theo vô niệm thì là con hiếu thuận”.
Lại nói: “Cũng như có người uống rượu say nằm vật ra đất. Mẹ hắn đến lay gọi với ý muốn kêu về nhà. Đứa con vì cơn say mê loạn trí, nên chửi rủa mẹ thậm tệ. Tất cả chúng sanh bị rượu vô minh làm say như không tin tự thân mình hể kiến tánh là thành Phật”.
Ngài lại dẫn kinh Khởi Tín Luận: “Có hai thứ tâm là Chân Như Môn và Sanh Diệt Môn. Vô niệm chính là Chân Như Môn, hữu niệm chính là Sanh Diệt Môn”.
Lại nói: “Vô minh trồi lên thì Bát nhã lặn mất. Vô minh lặn mất thì Bát nhã trồi lên”.
Lại dẫn kinh Niết Bàn: “Chó nhà và nai rừng: Chó nhà dụ cho vọng niệm, nai rừng dụ cho Phật tính”.
Lại nói: “Lụa vốn là tơ sợi không có văn tự gì cả! Kẻ khéo tay dệt thành mới có văn tự, nay gỡ kéo ra hết thì hoàn lại là tơ sợi. Tơ sợi dụ cho Phật tính, văn tự dụ cho vọng niệm”.
Lại nói: “Nước không rời sóng, sóng không rời nước. Sóng dụ cho vọng niệm, nước dụ cho Phật tính”.
Lại nói: “Có bọn người vác bao gai, chợt gặp chỗ chứa bạc. Một người bỏ bao gai lấy bạc. Những người kia nói: Chúng tôi vác gai đã quen, chúng tôi không bỏ gai mà lấy bạc. Lại đến chỗ chứa vàng, người đó bỏ bạc lấy vàng. Những người kia nói: Chúng tôi mang bao gai đã quen, chúng tôi không thể bỏ gai mà lấy vàng. Vàng dụ cho Niết Bàn, gai dụ cho sanh tử”.
Lại nói: “Ba câu ta nói vốn là giáo pháp do tổ sư Đạt Ma truyền lại. Không nên bảo là do hòa thượng Trí Sân và Đường hòa thượng đã nói”.
Lại nói: “Hứa đệ tử có nghĩa là đệ tử sau hơn thầy. Do hai hòa thượng Trí Sân và Đường không nói trọn giáo pháp mà chỉ truyền thừa tín y, nên hòa thượng Kim sở dĩ không dẫn điều mà hai hòa thượng Trí Sân và Đường đã nói: Thường mỗi lần giáo giới, kẻ dưới tòa liền nói thẳng: Ba câu mà tổ sư Đạt Ma truyền lại là pháp môn tổng trì. Niệm không khởi là giới môn, niệm không khởi là định môn và niệm không khởi là huệ môn. Không niệm tức là đầy đủ cả giới – định – huệ. Quá khứ, vị lai và hiện tại, hằng sa chư Phật đều theo cửa này mà vào; nếu lại có pháp môn khác thì không có chỗ đó đâu!”.
Hòa thượng Thần Hội ở chùa Hà Trạch – Đông Kinh, mỗi tháng lập đàn tràng vì người thuyết pháp phá thiền thanh tịnh, lập thiền Như Lai, lập tri kiến và lập ngôn thuyết. Vì giới định huệ không phá ngôn thuyết, Ngài nói: “Ngay lúc nói chính là giới, ngay lúc nói chính là định và ngay lúc nói chính là huệ. Nói pháp vô niệm để lập nên kiến tánh”. Năm Khai Nguyên, ở chùa Hoạt Đài, vì thiên hạ học đạo mà định tông chỉ, hòa thượng Thần Hội bảo rằng: “Nếu có một người nói, Hội này thật không dám nói!”.
Vì hòa thượng Thần Hội không được tín cà sa, nên năm Thiên Bảo thứ 8, chùa Hà Trạch ở Lạc Châu định tông chỉ, nên pháp sư Sùng Viễn hỏi: “Thiền sư tu hành trong ba hiền mười thánh, đã chứng được địa vị gì?”. Thần Hội đáp: “Kinh Niết Bàn chép: Nam mô Thuần Đà, nam mô Thuần Đà, thân giống phàm phu, tâm đồng tâm Phật”. Hòa thượng Thần Hội hỏi rằng pháp sư Sùng Viễn giảng kinh Niết Bàn từ trước đến giờ được mấy biến ?”. Sùng Viễn đáp: “Hơn 40 biến”. Lại hỏi: “Vậy pháp sư có thấy Phật tánh không?”. Pháp sư đáp: “Không thấy!”. Thần Hội nói: “Phẩm Sư Tử Hống chép: Nếu ngươi không thấy Phật tánh thì không nên giảng kinh Niết Bàn. Nếu ngươi thấy được Phật tánh thì nên giảng kinh Niết Bàn”. Sùng Viễn liền hỏi lại : “Vậy hòa thượng có thấy Phật tánh không?”. Thần Hội đáp: “Thấy chứ !”. Sùng Viễn lại hỏi: “Làm sao mà thấy? Che mắt thấy chăng? Tai, mũi… thấy chăng ?”. Thần Hội đáp: “Thấy không cần quá nhiều như thế! Thấy chỉ là không thấy!”. Lại hỏi: “Thấy bằng như Thuần Đà không?”. Thần Hội đáp: “Thấy tỉ lượng! Tỉ thì tỉ được với Thuần Đà, còn lượng bằng Thuần Đà là chuyện không dám đoán định”.
Pháp sư Sùng Viễn hỏi: “Thiền sư có được truyền cà sa đời trước không?”. Thần Hội đáp: “Có! Nếu không được truyền thì pháp đã dứt bặt”. Lại hỏi: “Vậy thiền sư có đó không?”. Đáp: “Không có tại chỗ của Hội này”. Pháp sư Sùng Viễn lại hỏi: “Vậy ai đang được cà sa?”. Thần Hội đáp: “Có một người được cà sa, đã được thì tự biết! Nếu người này khi nói pháp thì chánh pháp lưu hành là pháp tự diệt, làm được việc lớn cho Phật pháp cho nên còn ẩn chưa xuất hiện!”.
Khi hòa thượng Thần Hội còn ở Kinh Phủ, có nhóm người ở Tây Quốc là hiền giả Ca Diếp và An Thọ Đế, hơn 20 người thưa với hòa thượng Thần Hội: “Pháp Xứ hỏi : Hòa thượng có được tín cà sa đời trước không?”. Đáp: “Không ở chỗ Hội ta!”. Hòa thượng hỏi lại: “Các hiền giả từ nơi nào đến ?”. Ca Diếp đáp: “ Từ Kiếm Nam đến”. Lại hỏi: “Có biết thiền sư Kim không?”. Ca Diếp đáp: “Bọn tôi đều là đệ tử của Kim hòa thượng”. Hòa thượng Thần Hội hỏi: “Kim thiền sư của các ngươi dạy người và dạy đạo như thế nào?”. Ca Diếp đáp: “Vô minh trồi lên thì Niết Bàn lặn xuống. Bát Nhã trồi lên thì vô minh lặn xuống. Có niệm giống như sau lưng gương”. Hòa thượng Thần Hội nạt rằng: “Đừng nói lời rỗng tuếch. Người họ Ca Diếp là giòng dõi Bà La Môn, đáng ra hợp với lợi căn, nhưng trái lại là Bà La Môn hạng bét!”. Hòa thượng Thần Hội nói: “Thiền sư Trí Sân ở Kiếm Nam của ngươi là pháp sư không nói rõ giáo. Thiền sư Đường là đệ tử của thiền sư Trí Sân cũng không nói rõ giáo. Đệ tử Tiêu của thiền sư Đường ở Tư Châu là pháp sư. Đệ tử Vương ở Lăng Châu là luật sư. Đệ tử Biểu ở Vĩ Tây là pháp sư. Đệ tử Kim ở Ích Châu là thiền sư mà cũng không nói rõ giáo. Không nói rõ giáo thì Phật pháp chỉ ở bên kia !”.
Lang trung Mã Hùng sứ giả đến Tào Khê lễ bái tháp Lục tổ Huệ Năng, hỏi vị lão tăng giữ tháp rằng: “Tín cà sa truyền từ đời trước, nay ở chỗ nào?”. Lão sư đáp: “Lúc hòa thượng Huệ Năng còn ở đời. Sư Lập Giai và sư Trí Hải có hỏi hòa thượng Huệ Năng rằng cà sa đời trước nay có truyền thừa nữa không và Phật pháp phó chúc cho ai, hòa thượng Huệ Năng đáp : Y của ta thì người nữ (chỉ Võ Tắc Thiên) đã đem đi rồi! Còn pháp của ta thì sau khi ta chết đi 20 năm, người nào lập tông chỉ vững chắc là người được pháp của ta vậy!”.
Hiệu san “Lịch đại pháp bảo ký” quyển trung.
QUYỂN HẠ
(Kê Lâm Kim Cửu kinh, Minh Thường hiệu đính)
Kiếm Nam hòa thượng Vô Trụ ở chùa Đại Lịch bảo đường, phủ Thành Đô, thường vì bốn chúng học đạo, dù trăm ngàn vạn người hay chỉ có một người, có nghi thì tùy ý thưa hỏi, không định thời gian hay mưa nắng ở tòa thuyết pháp, thẳng đến kiến tánh, lấy trực tâm làm đạo tràng, lấy phát hạnh làm đạo tràng, lấy thâm tâm làm đạo tràng, lấy vô nhiễm làm đạo tràng, lấy bất thủ làm đạo tràng, lấy vô vi làm phương tiện, lấy quảng đại làm phương tiện, lấy bình đẳng làm phương tiện, lấy lìa tướng làm lửa, lấy giải thoát làm hương, lấy vô quái ngại làm sám hối, lấy vô niệm làm giới, lấy vô vi vô sở đắc làm định, lấy bất nhị làm huệ và không lấy nghiêm thiết làm đạo tràng.
Hòa thượng hỏi: “Tất cả chúng sanh vốn xưa nay thanh tịnh, vốn xưa nay tròn đầy, thêm không được, bớt cũng chẳng xong; vì tâm ruổi theo một niệm hữu lậu mà chịu các thứ thân trong ba cõi, giả danh thiện tri thức, trực chỉ bổn tánh và kiến tánh thì liền được thành Phật đạo, chấp tướng thì liền bị trầm luân; vì chúng sanh vốn hữu niệm mà giả nói vô niệm, hữu niệm nếu không thì vô niệm cũng không từ đâu mà có! Diệt tâm ở trong ba cõi, không ở nơi vắng lặng, không trụ nơi sự tướng, chẳng những không dụng cái vô công mà lại lìa hư vọng, gọi là giải thoát”.
Lại nói: “Hữu tâm chính là sóng cuộn, còn vô tâm tức là ngoại đạo. Thuận sanh tử tức là chúng sanh đắm nhiễm, nương theo tịch diệt tức là Niết Bàn. Động không xuôi theo sanh, không nương theo tịch diệt, không vào trong tam muội, không trụ nơi tọa thiền, không sanh, không hành, tâm không được mất, bóng hình đều chẳng có và tánh tướng chẳng lập”.
Hòa thượng là người ở huyện Phụng Tường Mi, họ đời là Lý, pháp hiệu là Vô Trụ, tuổi vừa được 50. Niên hiệu Khai Nguyên, hòa thượng thay cha làm chức Triển hiệu ở Sóc Phương. Lúc ấy, hòa thượng mới 20 tuổi, sức khỏe hơn người, võ nghệ chẳng ai bằng. Khi ấy, Tín An Vương đang giữ chức Tiết độ sứ ở hai đạo Hà – Sóc. Nhân thấy hòa thượng có uy dũng lẫm liệt, nên Tín An Vương giữ lấy và sung vào chức quan tiên phong thuộc Lưu vệ tiền Du dịch. Hòa thượng mỗi ngày tự than rằng: “Vinh hoa ở đời, ai mà không ham! Kẻ đại trượng phu chưa gặp bậc thiện tri thức không thể bỏ luống một đời người”, bèn bỏ quan chức mà tìm sư học đạo. Chợt Ngài gặp cư sĩ áo trắng tên Trần Sở Chương, chẳng biết người ở nơi nào, nhưng được kẻ đương thời gọi là Duy Ma Cật hóa thân, nói cho pháp đốn giáo. Ngày hòa thượng gặp ông, hai người ngầm khế hợp nghĩa tương tri và mặc truyền tâm pháp. Đắc pháp xong, hòa thượng một lòng hướng đến sự bặt lo dứt nghi. Sự tướng đều trừ, hòa thượng tu hạnh cư sĩ trong năm ba năm. Khoảng năm Thiên Bảo, hòa thượng chợt nghe ở núi Đáo Thứ, vùng Phạm Dương, có Minh hòa thượng, Đông Kinh có Hội hòa thượng, phủ Thái Nguyên có Tự Tại hòa thượng, đều là đệ tử của Lục tổ, nói pháp đốn giáo. Hòa thượng ngày ấy cũng chưa xuất gia, bèn qua Thái Nguyên lễ bái hòa thượng Tự Tại. Hòa thượng Tự Tại nói: “Trong thanh tịnh không có nghĩ tịnh thì đó tức là Phật tánh thanh tịnh chân thật”. Hòa thượng nghe pháp xong, tâm ý khơi bày, liền muốn từ giã lên đường phỏng đạo. Lão hòa thượng cùng chư sư đại đức cố giữ lại không cho đi, vì đây là rường cột của pháp chân thật, bèn cho cắt tóc đắp y. Năm Thiên Bảo thứ 8, hòa thượng thọ Cụ túc giới xong, bèn xin cáo từ lão hòa thượng, đi đến chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài và qua đó một kỳ hạ. Lại nghe nói ở núi Đáo Thứ có hòa thượng Minh vốn là người được hòa thượng Thần Hội truyền pháp, tuy biết ý muốn nhưng hòa thượng vẫn không đến tham bái.
Năm Thiên Bảo thứ 9, mãn kết hạ, sư ra khỏi núi, đến Tây Kinh, qua lại ở chùa An Quốc và chùa Sùng Thánh. Năm Thiên Bảo thứ 10, sư từ Tây Kinh đi đến phía Bắc đất Linh Châu, ở trong núi Gia Lan được hai năm. Bỗng dưng, có lái buôn Tào Hoài đến lễ bái, hỏi rằng: “Hòa thượng đến Kiếm Nam, có biết hòa thượng Kim không?”. Đáp: “Không biế!”. Hoài nói: “Tướng mạo của hòa thượng giống y hệt hòa thượng Kim, trên sống mũi của hòa thượng cũng có chỗ lún. Dáng mạo hòa thượng cùng với tướng mạo của hòa thượng ấy không khác nhau, thật đúng là hóa thân rồi!”. Hòa thượng hỏi Tào Hoài: “Cư sĩ từ Kiếm Nam đến, có biết hòa thượng kia nói giáo pháp gì không?”. Tào Hoài đáp: “Nói vô ý, vô niệm và vô vọng. Đệ tử ngày ấy nhận thọ duyên xong, liền từ giã ra đi. Hòa thượng Kim hỏi con đi đâu. Con nói rằng cha mẹ còn sống ở nhà nên muốn về quê thăm nom. Hòa thượng Kim bảo rằng : Không nhớ, không nghĩ, buông bỏ hết! Tâm trạng thanh thản thì có thấy cha mẹ ngươi không? Ngay lúc ấy, con nghe xong mà chưa hiểu. Nay con xin trình lại hòa thượng”. Hòa thượng nghe nói, tuy cách xa nhưng cũng muốn gặp hòa thượng Kim, liền ra khỏi núi Gia Lan, đến Bắc Linh Châu, xuất trình giấy tờ đi đường, định qua Kiếm Nam mà đảnh lễ hòa thượng Kim, nhưng bị giữ lại. Sau đó, Diêu Từ Vương không cho đi đến Kiếm Nam, đại đức hòa thượng Sử và các đại đức như: Luật sư Biện Tài, luật sư Huệ Trang … cũng đều giữ lại.
Đến tháng 10 năm Chí Đức thứ 2, hòa thượng từ Bắc Linh Châu lặng lẽ ra đi, đến thành Định Viễn và chỗ trại Phong Ninh, quân sứ Dương Hàm Chương, xuất trình giấy đi đường. Quân sứ cố giữ lại, hỏi hòa thượng: “Phật pháp hiện chỉ có ở Kiếm Nam hay nơi đây cũng có? Nếu kia và đây giống nhau thì cớ gì hòa thượng lại cố ra đi?”. Hòa thượng đáp: “Nếu biết tâm thấy tánh thì Phật pháp có khắp mọi nơi. Vô Trụ vì giai đoạn tu học với thiện tri thức ở Kiếm Nam mà ra đi để nương theo”. Quân sứ lại hỏi: “Thế thiện tri thức là ai?”. Đáp: “Là hòa thượng Vô Tướng họ Kim, được người đời gọi là Kim hòa thượng”. Quân sứ đảnh lễ, rồi cho giấy đi đường. Hòa thượng dần đi về phương Nam, đến Phụng Tường. Chư đại đức giữ lại không cho đi, nhưng hòa thượng cũng không ở, vào ở trong núi Thái Bạch qua một mùa kiết hạ. Mãn hạ, hòa thượng theo đường thủy Tế Cốc, đi đến Lương Châu. Chư tăng đồ chúng cố giữ lại, nhưng Ngài cũng không ở.
Tháng Giêng năm Càn Nguyên thứ 2, hòa thượng đến ở chùa Tịnh Tuyền tại phủ Thành Đô. Khi đến nơi, sư An Càn hướng dẫn Ngài ra mắt hòa thượng Kim, Ngài vô cùng hoan hỉ. Hòa thượng Kim sai sư An Càn làm chủ nhân để sắp đặt chỗ ở tại viện dưới lầu chuông. Lúc bấy giờ, chính là ngày thọ duyên. Ngay đêm ấy, Ngài cùng chúng thọ duyên, trải qua ba ngày ba đêm. Hòa thượng Kim mỗi ngày ở trong đại chúng, lớn tiếng nói rằng: “Tại sao không vào trong núi, ở lâu nào có ích gì!”. Đệ tử hầu hạ thân cận lấy làm lạ vì hòa thượng Kim không từng có lời này. Sao bỗng dưng chợt nói ra như vậy ? Hòa thượng Vô Trụ lặng lẽ đi vào núi.
Sau đó, Kim hòa thượng nhớ tới, hỏi: “Sao không thấy Vô Trụ đến?”. Thượng tòa Không thưa rằng: “Thượng tòa muốn được gặp Ngài, nhưng e rằng sau khi gặp thì Ngài không biết là ai!”. Hòa thượng Vô Trụ nói với Nghê Triều: Ta tuy ở trong núi, nhưng luôn cùng hòa thượng Kim gặp nhau. Nếu không muốn gặp nhau thì dù đối diện cũng cách nhau ngàn dặm. Ta lại vì ngươi mà nói một duyên khởi :
“Phật xưa còn tại thế, lúc ba tháng kết hạ ở cõi trời Đao Lợi, vì Ma Da phu nhân mà thuyết pháp. Mười sáu đại quốc vương và tất cả chúng sanh đều nhớ Phật. Họ bèn mời Đại Mục Kiền Liên đến cung trời Đao Lợi để thỉnh Phật. Phật mới trở xuống cõi Diêm Phù.
Lúc bấy giờ, Tu Bồ Đề ở trong thạch thất, nghe Phật trở xuống, liền muốn ra thất, nhưng tự nghĩ: “Ta nghe Thế Tôn nói rằng nếu ở trong tam muội thì chính là thấy Ngài. Nếu cố đến thấy sắc thân ta thì nào có ích gì!” Thế là ông lại vào trong tam muội.
Lúc bấy giờ, tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc muốn bỏ ác danh, bèn đến gặp Phật. Các đại quốc vương, Long thần và Bát bộ bao quanh giáp vòng chẳng có lối vào. Thế nên, Liên Hoa Sắc hóa thân thành vua Đại Chuyển Luân có ngàn người vây quanh. Long thần và quốc vương thảy đều mở lối. Liên Hoa Sắc bèn hiện trở lại bổn thân, đi vòng quanh Phật, chắp tay mà nói kệ rằng:
Con mới thấy Phật
Con mới lễ Phật.
Nói kệ xong, Liên Hoa Sắc làm lễ, rồi đứng qua một bên. Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Liên Hoa Sắc: “Ở trong hội này, ngươi là người đứng hàng sau cùng”. Liên Hoa Sắc bạch Thế Tôn: Ở trong hội này, không có La Hán, vì sao Phật nói con là người đứng hàng sau cùng? Thế Tôn bảo: Tu Bồ Đề ở thạch thất thường vào trong tam muội, cho nên thấy pháp thân ta. Ngươi cố đến thấy sắc thân ta, cho nên ở phía sau”. Phật nói rõ ràng. Vì thế, Vô Trụ ta không đi!.
Cùng ở chung núi, có sư Đạo Dật tập trung lễ niệm. Hòa thượng một mực bặt dứt suy nghĩ, vào trong cảnh giới tự chứng. Đạo Dật cùng các tiểu sư đồng tu bạch hòa thượng rằng: “Chúng con muốn được lễ sám sáu thời. Xin hòa thượng cho phép”. Hòa thượng nói: “Lương thực nơi này đều do người dứt hết trần duyên, mang chở vào núi sâu. Không thể y theo pháp mà tu hành, lại muốn được học mê dối! Cả hai thứ đó đều chẳng phải là Phật pháp”. Hòa thượng dẫn kinh Phật Đảnh rằng: “Tâm cuồng mê chẳng dứt, dứt hết tức là Bồ Đề. Tâm sáng sạch thù thắng vốn đồng pháp giới. Vô niệm chính là gặp được Phật, hữu niệm tức là sanh tử. Các ngươi nếu muốn được lễ niệm thì cứ ra khỏi núi! Ở dưới núi, có chùa chiền rộng lớn an nhàn, mặc sức mà đi! Nếu muốn cùng ở thì phải vô niệm. Nếu chịu được thì cứ trụ, còn bằng không thì nên xuống núi”.
Sư Đạo Dật thấy không toại bổn ý, liền cáo từ hòa thượng, ra khỏi núi Thiên Thương, đến chùa Tịnh Tuyền ở Ích Châu, yết kiến trước Hà Không thượng tòa, nói rằng: “Trong núi, thiền sư Vô Trụ không hành pháp lễ niệm, chỉ ngồi không nhàn rỗi”. Nhóm sư Hà Không nghe nói, vô cùng kinh ngạc, cho rằng như vậy há là Phật pháp sao? Rồi nhóm sư Hà Không dẫn sư Đạo Dật đến gặp hòa thượng Kim. Đạo Dật chưa lễ bái xong, nhóm sư Hà Không bẩm Kim hòa thượng: “Thiền sư Vô Trụ ở núi Thiên Thương chỉ ngồi rồi, không chịu lễ niệm, cũng không dạy người cùng ở lễ niệm. Há có việc như vậy mà lại gọi là Phật pháp được sao?”. Hòa thượng Kim quát mắng nhóm sư Hà Không và Đạo Dật: “Các ngươi hãy lui ra sau! Ta lúc ở nơi học địa, không kịp ăn cơm, chỉ ở không, ngồi rảnh rang, đại tiểu tiện cũng không có thời gian! Các ngươi không biết rằng ngày ta ở núi Thiên Cốc cũng không lễ niệm. Các đồng học cáu giận ta không ra khỏi núi, không ai đem lương thực đến! Ta đành vò đất làm thức ăn, cũng không có thời gian ra khỏi núi, chỉ một mặt nhàn tọa. Vị Mạnh tự chủ nghe các đồng học nói ta nhàn tọa, liền mách với hòa thượng Đường. Hòa thượng nghe nói ta nhàn tọa, lại càng thêm vui mừng. Ta ở trong núi Thiên Cốc, cũng không biết bị chê gièm. Nghe hòa thượng Đường không khỏe, ta từ trong núi Thiên Cốc đi đến chùa Đức Thuần – Tư Châu mà thăm viếng. Mạnh tự chủ thấy ta đến, liền không cho vào chùa. Hòa thượng Đường nghe ta đến, bèn cho người gọi ta đến trước lễ đường. Ta lễ bái chưa xong thì Ngài liền hỏi: “Ngươi làm gì ở núi Thiên Cốc?” Ta đáp: “Một vật cũng chẳng làm, chỉ không bận rộn!” Hòa thượng Đường bảo: “Ngươi bận rộn thì ta cũng bận rộn vậy!” Hòa thượng Đường biết mọi người không hiểu.
Hòa thượng Vô Trụ ở trong núi, biết hòa thượng Kim từ xa nhớ nghĩ đến mình, tức là Ngài đã biết ý mình, bèn nói với Đỗng Tuyền rằng: “Này cư sĩ, một nhánh Phật pháp của tổ sư Đạt Ma lưu truyền ở đạo Kiếm Nam, chính là hòa thượng Kim. Nếu không thọ duyên thì giống như đến núi báu mà trở về tay không”. Đỗng Tuyền nghe xong, chắp tay đứng dậy nói: “Đệ tử sẽ vào Thành Đô mà thọ duyên vậy!”. Hòa thượng nói: “Đây có nửa cân trà nanh (trà móc câu)! Cư sĩ nếu đi, xin đem theo trà nanh này để làm tin, rồi dâng lên hòa thượng Kim và chuyển lời của Vô Trụ rằng: Đảnh lễ hòa thượng! Hòa thượng Kim nếu có hỏi đến Vô Trụ thì xin đáp rằng Vô Trụ chưa có ý định ra khỏi núi”. Đỗng Tuyền bèn cáo từ hòa thượng Vô Trụ và đem trà nanh dùng lễ để dâng lên trên. Đến ngày 30 tháng 6, Đỗng Tuyền mới đến chùa Tịnh Tuyền, phủ Thành Đô. Vì hòa thượng Kim bị bệnh, nên không ai được gặp! Nhưng Đỗng Tuyền được sư Bồ Đề dẫn đến ra mắt hòa thượng Kim. Đỗng Tuyền trình trà nanh mà thiền sư Vô Trụ dâng lên, rồi đảnh lễ hòa thượng Kim. Hòa thượng Kim nghe kể và thấy trà nanh thì vô cùng mừng rỡ và nói rằng: “Thiền sư Vô Trụ đã có tin đến, sao không đích thân đến?”. Đỗng Tuyền đáp: “Thiền sư Vô Trụ ngày ấy nói rằng Ngài chưa có ý định ra khỏi núi”. Hòa thượng Kim hỏi Đỗng Tuyền: “Ngươi là ai?”. Đỗng Tuyền nói dối rằng: “Là đệ tử hầu hạ thân cận thiền sư Vô Trụ”. Hòa thượng Kim nói : “Khi ngươi trở về núi Bạch Nhai, ta có thư gửi thiền sư. Ngươi phải đến gặp ta nhé!”.
Ngày 15, Đỗng Tuyền đến gặp hòa thượng Kim, nói rằng: “Con muốn trở về núi Bạch Nhai, xin nhận thư của hòa thượng”. Lúc ấy, Kim hòa thượng bảo các đệ tử thân cận rằng: “Các ngươi hãy cùng ra ngoài lễ đường”, rồi gọi Đỗng Tuyền vào nội đường. Đỗng Tuyền vâng lệnh vào lễ đường, quỳ mọp chắp tay. Hòa thượng Kim đem một chiếc cà sa, trao cho Đỗng Tuyền và nói rằng: “Đây là cà sa do Hoàng đế Võ Tắc Thiên ban tặng cho hòa thượng Trí Sân. Hòa thượng Trí Sân truyền cho hòa thượng Đường. Hòa thượng Đường truyền lại cho ta. Nay ta truyền cho thiền sư Vô Trụ. Y này từ lâu đời đã được cất giữ và nâng niu cẩn mật, chớ để cho người biết!”. Nói xong, hòa thượng Kim buồn bã rơi lệ và tức tưởi nói: “Y này do các đời nối giòng chính thống truyền trao cho nhau, phải nên cố gắng!”. Rồi hòa thượng Kim cởi cà sa trên mình, cộng với 17 món như ấp vai quần áo, tọa cụ và nói: “Ta nay đã già. Ngươi đem y cà sa và các món này ngầm trao cho thiền sư Vô Trụ, truyền lời ta rằng : Phải khéo tự giữ gìn trân trọng, thật cố gắng! Nay chưa phải lúc ra khỏi núi, hãy đợi khoảng năm ba năm nữa, tự nhiên sẽ có quý nhân đến đón, chừng đó hãy ra khỏi núi!”. Nói đoạn, hòa thượng Kim truyền sai Đỗng Tuyền hãy mau trở về mà chớ để cho người thấy.
Sau khi Đỗng Tuyền đi rồi, hòa thượng Kim tự nói rằng: “Vật này đi chậm, cuối cùng rồi cũng đạt”. Khi hòa thượng Kim đang nói lời này, hai bên không có người. Đệ tử ở ngoài lễ đường nghe tiếng nói của hòa thượng, bèn cùng vào chùa hỏi hòa thượng rằng sao Ngài nói một mình. Hòa thượng Kim đáp: “Ta chỉ nói bâng quơ thôi!”. Mọi người nhân lúc hòa thượng Kim đang bị bệnh, thấy thế liền nghi ngờ và hỏi hòa thượng: “Tín y mong trên truyền lại giờ ở nơi nào? Hòa thượng phó chúc Phật pháp cho ai?”. Kim hòa thượng đáp: “Pháp của ta đã đi đến chỗ Vô Trụ, y thì treo trên ngọn cây. Không có ai được cả! Đây chẳng phải là cảnh giới của các ngươi, ai nấy hãy trở về chỗ cũ của mình đi!”. Ngày 15 tháng 6 năm Nguyên Niên được sửa đổi thành năm Bảo Ứng Nguyên Niên. Ngày 15 tháng 5, hòa thượng Kim từ xa phó chúc pháp xong. Đến ngày 19, Ngài sai đệ tử lấy y mới sạch sẽ và bảo rằng ta muốn tắm gội. Đến giờ Tý nửa đêm, Ngài nghiễm nhiên ngồi mà qua đời.
Phó Nguyên soái Hoàng môn Thị lang Đỗ tướng công (Tể tướng) Hồng Tiệm khi mới đến phủ Thành Đô, nghe hòa thượng Kim là bậc chẳng thể nghĩ bàn. Hòa thượng Kim nay đã tịch, cần phải có đệ tử kế thừa về sau. Đỗ tướng công liền đến chùa Tịnh Tuyền và chùa Ninh Quốc – Hành Sơn mà trông ngắm, thấy dấu tích của hòa thượng Kim khi còn sống. Đỗ tướng công mới hỏi các tiểu sư rằng ai là đệ tử truyền thừa sau này và tăng nhân nào được y bát. Tiểu sư đáp: “Cũng không có người kế thừa về sau. Khi hòa thượng còn sống, có hai chiếc cà sa: Một chiếc để ở chùa Ninh Quốc, một chiếc được lưu giữ tại chùa Tịnh Tuyền để cúng dường”. Đỗ tướng công không tin, hỏi lại các luật sư: “Hồng Tiệm này từ xa nghe danh hòa thượng Kim là bậc đại thiện tri thức, được sư sư truyền trao phó chúc y bát. Nay hòa thượng Kim đã thị tịch, đệ tử thừa hậu ở đâu?”. Luật sư đáp: “Thiền sư Kim là người phiên thuộc nước ngoài, cũng không có Phật pháp. Ngày còn sống, thiền sư cũng không thường nói pháp và lời nói cũng không đúng đắn. Thiền sư tuy được cúng dường đầy đủ, nhưng bố thí thì không! Chỉ vì tăng có phước đức, mặc dù có đệ tử nhưng thiền sư cũng không quen rành Phật pháp!”.
Đỗ tướng công là người giỏi xét, liền biết đó là lời ghen ghét, bèn trở về nha thự, hỏi các ông giúp việc thân cận là Khổng mục quan Mã Lương và Khang Nhiên: “Các ông có biết đại đức danh tăng cao hạnh ở Kiếm Nam không?”. Mã Lương đáp: “Trong nha viện, Tiết độ tướng quân thường nói: Tàm Nhai quan Tây, trong núi Bạch Nhai có thiền sư Vô Trụ được y bát của hòa thượng Kim, là người đệ tử kế thừa. Thiền sư có đạo nghiệp rất sâu, cũng không từng ra khỏi núi”. Đô tướng công nghe nói thế, mới hỏi rằng: “Hồng Tiệm ta vẫn nghe hòa thượng Kim là bậc đại thiện tri thức. Hôm qua, ta đến chùa Tịnh Tuyền và chùa Ninh Quốc, hỏi các đệ tử thân cận của hòa thượng Kim. Họ đều nói rằng không có đệ tử thừa kế, cũng không có y bát để làm tin. Ta lại hỏi các luật sư thì họ đều nói lời phỉ báng. Theo đây mà căn cứ thì ta biết thiền sư Vô Trụ ở núi Bạch Nhai chắc hẳn là bậc đã đạt được đạo”.
Liền ngay trong ngày, Đỗ tướng công tập hợp ở đại vệ và hỏi các quân tướng trong phạm vi họ cai quản có danh tăng đại đức nào không. Tiết độ Phó sứ Ngưu Vọng Tiên, Lý Linh Ứng, Quy Thành Vương, Đỗng Gia Hội, Trương Ôn, Âm Hiệp, Trương Dư Quang, Trương Chẩn và Tần Địch bẩm báo Đỗ tướng công: “Ở núi Bạch Nhai, có thiền sư Vô Trụ. Y bát của hòa thượng Kim ở chỗ ấy, chính là bậc không thể nghĩ bàn”. Đỗ tướng công hỏi bọn ông Ngưu Vọng Tiên do đâu mà biết được. Đáp: “Cao đại phu của Vọng Tiên được sung chức Thạch Bi doanh sứ, ở cách đạo tràng không xa, nhiều lần đến đó đảnh lễ và biết là bậc không thể nghĩ bàn”. Đỗ tướng công lại hỏi : “Ngươi vừa nói rằng y bát ở nơi đó, ai biết đích thực điều đó?”. Tần Địch và Trương Hoàng bẩm báo rằng: “Bọn Địch mổ đây được sung chức Tuần tra Ngu hầu. Lúc hòa thượng Kim mới diệt độ, đệ tử thân cận hai chùa khóc lóc tỉ tê báo cho Hà Thường Thị và Cao đại phu rằng tín y của hòa thượng Kim không biết đích thực ở đâu và không phần hủy. Cao đại phu dặn dò tả hữu tuần tra ngu hầu hạch hỏi mới biết được nơi để cà sa. Ngay ngày ấy, họ chỉ thấy được hai chiếc cà sa do mỗi chùa giữ một chiếc, còn tín y thì chẳng biết nơi nào mà tìm. Ngày ấy, họ không biết có Tàm Nhai ở cửa ải phía Tây và trong núi Bạch Nhai có thiền sư Vô Trụ. Sau, Cao đại phu cho tăng thêm 10 tướng và sai sung lãnh binh mã lên Tây Sơn đánh thành Đương Cẩu. Quân chưa tiến vào, đóng binh ở dinh Thạch Bi, hành dinh gần đạo tràng. Bọn quân tướng nhóm Địch mổ… mang vật cúng dường đến nơi, gặp thiền sư có dung mạo rất giống hòa thượng Kim. Nhóm Địch mổ vừa trông thấy, liền cho là hóa thân của hòa thượng Kim. Chúng tôi hỏi han thì mới biết y bát đã được hòa thượng Kim sai người mang đi trước đó. Người mang đi giấu hai năm không trao y bát, sau bán cho một tăng nhân. Tăng nhân được y. Đêm đến, có thần nhân bảo rằng: “Phải trả lại cho chủ nó, nếu không thì ắt hẳn sẽ tổn hại đến mạng ngươi”. Người mua đem y đến báo lại kẻ bán. Sau, kẻ bán không bán được, bèn đem đến chỗ của thiền sư. Nhóm Địch mổ vừa nghe xong, ngay lúc ấy liền sục tìm nhưng không biết chỗ để cà sa. Nay thiền sư đã ở đây thì bọn Địch mổ xin đảnh lễ. Thiền sư cũng không có ý làm khó, bèn nâng chiếc cà sa đem ra trình với các quân tướng. Bọn Địch mổ do đây mà biết được cà sa ở chỗ đó”.
Đỗ tướng công nghe nói thì ngẩn ngơ. Tăng nhân nếu làm mất Phật pháp thì không bằng kẻ tục, vì kẻ tục còn muốn Phật pháp được lưu hành. Tiết độ Phó sứ Lý Linh Ứng, Trương Ôn, Ngưu Vọng Tiên, Quy Thành Vương, Đỗng Gia Hội, Vị Loan và Tần Địch liền bảo các nha thự cùng viết tờ trạng thỉnh mời hòa thượng.
Đỗ tướng công nghe các tướng quân hiểu biết thiền sư Vô Trụ, tự có lòng thỉnh, bèn sai quan Quang lộc khanh Mộ Dung Đảnh làm chuyên sứ, bảo ra văn điệp báo các châu huyện sở tại theo đường, sắp bày cờ phan, bông hoa, gồm đủ tăng đạo cùng giàn nhạc, sai một kẻ rành công việc cùng với huyện quan vào núi để thỉnh mời thiền sư.
Văn điệp cuối cùng đến hai chùa Tịnh Tuyền và Ninh Quốc. Sư tiểu Kim và đại sư Trường nghe thỉnh Vô Trụ hòa thượng thì hoảng sợ không biết tính sao, bèn cùng đám luật sư Bình Chương định làm chuyện ma mãnh. Biểu đệ của tiên nghiêm Thượng thư cùng bọn Tiêu luật sư bảo Thái phu nhân chiếm thiền viện của hòa thượng Kim để làm luật viện. Còn thiền đường của hòa thượng Kim thì làm luật đường. Bọn sư tiểu Kim và sư Túc Luật tạm an thân mà dặn Đô Ngang lang trung tính kế, lập bia cho luật viện và soạn văn bia.
Luật sư Trương Tri Túc và Vương Anh Diệu cùng sư tiểu Kim và sư Trương Đại là chỗ tương tri. Luật sư Vương Quang Diệu cùng họ với Thị lang Vương Kiển nên họ nhận nhau làm huynh đệ, bảo Thôi bộc xạ và Nhiệm phu nhân thiết trai. Ăn xong, sư tiểu Kim liền kính cẩn đem chiếc cà sa mà Bùi bộc xạ thí nạp, trình cho Thôi bộc xạ và phu nhân. Sư tiểu Kim buồn bã khóc lóc mà nói rằng: “Đây là tín cà sa đã thừa truyền từ trước”. Bộc xạ nói: “Ta không biết việc này. Thỉnh thiền sư Vô Trụ là ý Đỗ tướng công đã cân nhắc thận trọng. Việc này chẳng có liên quan gì đến ta”. Đô Ngang và Vương Kiển là bè đảng sợ bị chiếm đoạt luật viện nên quay lại hỏi đám luật sư : “Sơn tăng Vô Trụ thiền sư có đạo nghiệp gì?”. Đám luật sư Ngô Diệu đáp: “Nếu cứ như thiền sư Vô Trụ thì không có hiểu biết gì cả! Nếu mời thỉnh thiền sư thì thật không có ích gì cho đồ chúng”. Thượng thư (tức bộc xạ) hỏi: “Duyên cớ gì mà không có ích cho đồ chúng?”. Đáp: “Có một người thợ ở Vấn Châu chuyên chạm khắc bia công đức, được thưởng một chiếc cà sa trị giá 20.000 văn tiền, bị thiền sư Vô Trụ đoạt lấy chiếc y mà không trả lại. Thiền sư còn nói rằng đây là y mà Kim hòa thượng ban cho ta, lại không cử hành sự tướng lễ niệm. Căn cứ vào lý do này, đó chính là không có lợi ích cho tăng đồ”. Bộc xạ nói với luật sư: “Ta đây lúc nắm binh mã ở Tây Sơn đã biết rõ tình huống. Các sư sao lại dùng điều dối gạt?”. Nói xong, bộc xạ lìa pháp tịch, quân ma mãnh sững sờ không biết tính làm sao! Thế là chuyện ma mãnh liền cắt đứt.
Ngày 23 tháng 9 năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Thái, đám chuyên sứ Mộ Dung Đảnh, quan huyện cùng tăng đạo đến núi Bạch Nhai để thỉnh hòa thượng và truyền ý Đỗ tướng công. Bộc xạ và giám quân xin đảnh lễ, ân cần nài nỉ và cầu xin hòa thượng Vô Trụ đừng bỏ lòng từ bi, hãy vì chúng sanh trăm họ đất Tam Thục mà làm cầu và bến lớn. Hòa thượng biết Đỗ tướng công hiểu biết rất sâu xa Phật pháp và mến mộ Đại Thừa, bộc xa là người nhân từ và khoan dung, còn giám quân thì kính trọng Phật – Pháp – Tăng. Xét biết là cùng duyên cùng hội, nên hòa thượng chẳng làm trái chỗ mong cầu của họ. Thế là có tràng phan hoa và lọng quý! Đại đức ở các châu sợ hòa thượng chẳng chịu ra khỏi núi Bạch Nhai, nên cũng đến ngay cửa núi để cung thỉnh, bèn đem xe báu đón rước và mời hòa thượng ngồi bên trong. Hòa thượng không nhận lễ nên đi bộ dần từng bước. Ngày hòa thượng định ra khỏi núi, trong cảnh địa Mậu Châu, sáu hồi chấn động, sông núi rền vang, côn trùng chim chóc kêu hót và trăm họ hỏi nhau: “Đây là điềm lành gì?”. Khi thấy có sứ đến đón hòa thượng, tăng ni đạo tục xứ ấy xin giữ hòa thượng. Chuyên sứ nói với kẻ tăng người tục rằng: “Ý trọng của Đỗ tướng công và quan bộc xạ, vì chúng sanh ở Tam Thục, há chỉ vì cảnh địa này sao, nên quyết không để hòa thượng ở lại”. Lúc hòa thượng chưa ra khỏi núi, giặc cướp nổi lên đầy dẫy, các châu mất mùa nên giá lúa gạo vọt cao, trăm họ kinh hoàng sợ hãi. Khi Đỗ tướng công và bộc xạ nghênh đón hòa thượng ra khỏi núi, đến bất cứ châu huyện nào, lúa gạo lại rẻ mạt, người dân được an lạc, đất đai cả vùng trúng mùa, trừ hết bọn giặc cướp và an nhiên vô sự. Hòa thượng đến châu, quan lại ở châu cung nghênh; đến huyện thì quan huyện dẫn đường. Nhà nhà đều treo phướn, cửa cửa thảy đều thắp hương, nói rằng: “Trăm dân có phước”. Kẻ đạo người tục ở khắp đường bảo rằng: “Hòa thượng Vô Tướng đi, hòa thượng Vô Trụ đến. Đây chính là Phật pháp nối tiếp, hóa hóa không dứt, đèn đèn nối nhau, pháp nhãn tỏa rộng, pháp tràng được gầy dựng để đại hành Phật pháp vậy!”. Đỗ tướng công sai Đô áp nha Khâm Hoa đi ra xa để nghênh đón hòa thượng. Khâm áp nha chuyển lời Đỗ tướng công rằng: “Hồng Tiệm con chợt có bệnh cảm, không được đi ra xa để nghênh đón hòa thượng. Con sẽ đảnh lễ vào ngày hòa thượng đến”.
Tiết độ sứ ở Tây Xuyên – đạo Kiếm Nam, Tả bộc xạ kiêm Đại phu Hương sử Thành Đô là Doãn Thôi Công, bảo các ông Đô ngu hầu Vương Hưu Nham, Thiểu phủ Giám lý Quân Chiêu và Vệ tiền Ngu hầu Đồ Chương chuyển lời Bộc xạ đảnh lễ hòa thượng, thưa rằng: “Đệ tử là người đứng đầu đất này, đáng lý phải nghênh đón hòa thượng từ xa. Nhân vì tướng công bị cảm bệnh, cho nên đệ tử và Giám quân sứ không dám đến trước người. Cúi xin hòa thượng soi xét”. Chuyển lời Bộc xạ xong, các ông bèn đưa hòa thượng đến chùa Không Tuệ (Huệ) để nghỉ ngơi. Lúc ấy là ngày 29 tháng 9.
Đến mùng 1 tháng 10, Đỗ tướng công, Ngô giám quân và các quan Lang trung Thị lang sau khi lưu lại Đông Xuyên thì Lang trung Đỗ Tể, Hành quân Đỗ Tàng, Kiếm Nam sứ Trung thừa Tiễn vụ Tề Minh, Lang trung Dương Đạm, Đỗ Á, Đỗ Ngang, Mã Hùng, Sầm Sam, Quán Sát phán quan, viên ngoại Lý Bố, viên ngoại Liễu Tử Hoa, Thanh miêu sứ Ngô Úc, Tổ dung sứ Vi Hạ, Hữu thị lang Địch Bắc Tề, Thôi Kháng, Thôi Thích, Vương Kiển, Tô Sương, Tư Mã Liêm, hai thiếu là Doãn Thành Bí và Bạch Tử Phương, hai huyện lệnh là Ban Tôn và Lý Dung cùng quan bắt cướp đến cửa chùa Không Tuệ. Đám các ông Đô ngu hầu Vương Hưu Nham, Đô áp nha Khâm Hoa và Vệ Trạch Giao đến trước hòa thượng mà bạch rằng: “Đỗ tướng công đến yết kiến hòa thượng”. Hòa thượng đáp: “Cứ để Ngài đến”. Các áp vệ bạch hòa thượng: “Quan tướng quốc đáng quý trọng, hòa thượng nên ra đón tiếp”. Hòa thượng đáp: “Không nên đón tiếp, vì đón tức là nhận sự thường tình, còn không đón mới chính là Phật pháp”. Áp nha còn muốn nói thêm thì Đỗ tướng công đã vào chùa, thấy dáng vẻ hòa thượng chẳng lay động và an tường vòi vọi. Đỗ tướng công cúi mình xuống thềm, chắp tay làm lễ và hỏi han chào lạy. Các Lang quan Thị khanh chưa từng thấy có việc này, chợt thấy hòa thượng, họ không đón tiếp và cũng không đứng dậy chào Tướng quốc. Hai người nhìn nhau ngầm hỏi duyên cớ gì mà họ không đón tiếp và không đứng dậy. Lang trung Dương Đạm và Đỗ Á tướng từ lâu phục thị Tướng quốc, thưa rằng: “Ngài thật là hiểu sâu ý chỉ và cũng rành Phật pháp”. Đoạn nói với các Lang quan Thị khanh: “Xem thiền sư thì chắc chắn là có đạo hạnh. Đỗ tướng công tự xét biết, cần gì phải ngạc nhiên!”.
Hôm ấy, ở ngoài cửa Tiết đô Phó sứ Đô ngu hầu, quan bắt giặc vừa nghe hòa thượng gặp Đỗ tướng công mà các Lang quan Thị khanh không đứng dậy, không đón tiếp thì sợ đến tái mặt và vã mồ hôi, rồi sai người ngầm nghe ngóng. Rốt cuộc, đến lúc thấy Đỗ tướng công ngồi yên nói cười, hòa thượng thuyết pháp, Đỗ tướng công cúi đầu. Lang quan Thị khanh vui mừng và người ở ngoài cửa nghe xong thì không còn lo nữa! Đỗ tướng công vừa ngồi, liền hỏi hòa thượng: “Hòa thượng vì sao mà đến đây?”. Hòa thượng đáp : “Từ xa đến đây, ta nương tựa vào hòa thượng Kim”. Hỏi: “Nghe Ngài nói giáo pháp gì?”. Đáp: “Ta đã từng tọa thiền ở chùa Bảo Phúc ở Đài Sơn và chùa Phần Châu ở núi Gia Lan. Ta nghe hòa thượng Kim nói pháp đốn giáo nên từ xa đến để nương tựa”. Hỏi : “Hòa thượng Kim nói pháp không nhớ, không niệm, chẳng quên. Đúng không?”. Đáp: “Đúng!”. Hỏi: “Ba ngữ cú này là một hay ba?”. Đáp: “Là một, chứ chẳng phải là ba! Không nhớ là giới, không niệm là định và không quên là huệ (tuệ)”. Lại nói: “Niệm không khởi là giới môn, niệm không khởi là định môn và niệm không khởi là huệ môn. Vô niệm tức là đầy đủ được giới – định – huệ (tuệ) vậy!”. Lại hỏi: “Đã một chữ vọng, đó là quên đi nữ hay là quên đi tâm?”. Đáp : “Quên đi nữ”. Lại hỏi: “Có chứng cứ không?”. Đáp : “Có!”. Hòa thượng bèn dẫn kinh Pháp Cú:
Nói các pháp tinh tấn
Là vì tăng thượng mạn (mà nói)
Nếu không tăng thượng mạn
Không thiện, không tinh tấn
Nếu được tâm không vọng
Tinh tấn không ranh giới.
Đỗ tướng công nghe nói, liền bạch hòa thượng: “Hòa thượng có thấy cây ở trước sân không?”. Hòa thượng đáp: “Thấy!”. Lại hỏi: “Đằng sau bức tường có cây, sư thấy không?”. Đáp: “Thấy! Chẳng luận là trước hay sau, khắp mười phương thế giới đều thấy đều nghe”. Có con quạ kêu trên cây trước sân, Đỗ tướng công lại hỏi hòa thượng: “Sư có nghe tiếng quạ kêu không?”. Hòa thượng đáp: “Biết rõ, thấy nghe này là sự biết rõ thấy nghe ở thế gian”.
Kinh Duy Ma chép: “Nếu hành thấy nghe, biết rõ thì tức là thấy nghe biết rõ. Pháp cũng chỉ thấy nghe biết rõ. Không nghĩ tức là không thấy, không nghĩ tức là không biết. Vì chúng sanh còn nghĩ mà nói dối là không nghĩ. Chính lúc không nghĩ đó thì không nhớ nghĩ không phải là không nhớ nghĩ vậy!”.
Lại dẫn kinh Kim Cang rằng : “Tôn giả Đại Giác Tôn nói pháp sanh vô niệm. Vô niệm thì không sanh tâm. Tâm thường sanh chẳng diệt”.
Lại dẫn kinh Duy Ma rằng: “Không hành là Bồ Đề, vì cớ không nhớ nghi và thường cầu không nhớ nghĩ, đó là thật tướng của trí tuệ”.
Kinh Lăng Già chép: “Bậc thánh chứng bên trong, thường ở nơi vô niệm”.
Kinh Phật Đảnh chép: “A Nan! Ngươi tạm cử tâm thì trần lao liền khởi”. Lại nói: “Thấy cũng giống như lìa thấy thì thấy không thể sánh ví”.
Kinh Tư Ích chép: “Thế nào là tất cả chánh pháp ? Thế nào là tất cả tà pháp ? Nếu đem tâm để phân biệt thì tất cả các pháp đều tà. Còn không đem tâm phân biệt thì tất cả các pháp đều chánh ngay”.
Kinh Lăng Già chép: “Thấy Phật, nghe pháp đều là phân biệt ở tự tâm, không khởi thấy thì mới gọi là thấy Phật”.
Đỗ tướng công nghe nói xong, đảnh lễ hòa thượng và bạch rằng: “Hồng Tiệm con nghe danh Ngài từ khi hòa thượng chưa xuống núi. Con đến chùa Tịnh Tuyền và chùa Ninh Quốc để dò xét tung tích của hòa thượng Kim, vốn là bậc đại thiện tri thức, liền biết ở Kiếm Nam cũng phải có bậc thiện tri thức. Con bèn hỏi khắp các sư tăng về ba câu nói của hòa thượng Kim và chữ vọng thì họ đều trả lời rằng quên hết cái tâm tạo tác. Ba câu nói đều khác nhau, không quyết được chỗ nghi của đệ tử! Con hỏi các quân tướng há không có chân tăng ở Kiếm Nam sao, nhưng không có người nào đáp được! Nhóm Tiết độ sứ Ngưu Vọng Tiên và nhóm các tướng quân Tần Địch đều bẩm với con rằng nghe đồn hòa thượng đạo đức sâu dày, cho nên mới từ phương xa đến đây để nghênh tiếp. Lại mong hòa thượng bất xả từ bi, cùng trăm dân ở xứ Tam Thục tác đại lương duyên”. Nói xong, Đỗ tướng công liền đảnh lễ và thưa rằng: “Đệ tử thì việc công có hạn. Chỉ có Bộc xạ và các Tiết độ Phó sứ chưa được lễ bái hòa thượng. Con chưa rời Kiếm Nam thì mỗi ngày chẳng rời Ngài”. Nói xong, Đỗ tướng công bèn cáo từ mà đi.
Bộc xạ biết Đỗ tướng công vui vẻ, nên nói rằng: “Hòa thượng đúng là bậc không thể nghĩ bàn”. Rồi cùng Nhiệm phu nhân và Tiết độ quân tướng đảnh lễ hòa thượng, hỏi han lạy chào, rồi ngồi yên chỗ. Phân đô Áp nha cho các quân tướng vào nghe hòa thượng thuyết pháp. Lúc bấy giờ, có pháp sư Vô Doanh và pháp sư Thanh Nguyên là hai bậc cao vời trong tăng, đang ngồi trong chúng.
Hòa thượng dẫn kinh Phật Đảnh rằng: “A Nan, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị đủ thứ điên đảo gieo nghiệp tự nhiên như ác xoa nhóm họp. Còn các người tu hành thì không thể thành được quả vô thượng Bồ Đề. Thanh văn Duyên giác cũng không mà chỉ thành ngoại đạo. Chư thiên và quyến thuộc của Ma vương đều do không biết hai loại căn bản, rồi tu tập sai lầm giống như nấu cát mà muốn thành cơm, dù trải qua kiếp số bụi trần thì cũng không thể được ! Thế nào là hai loại căn bản? A Nan! Một là căn bản sanh tử từ vô thỉ, thì ngươi nay cùng với chúng sanh lấy tâm phan duyên làm tự tánh. Hai là tâm giác ngộ Niết Bàn từ vô thỉ, vốn không có thể thanh tịnh thì ngươi nay biết rõ vô minh hay sanh ra các duyên, rồi bị duyên sai khiến mà mất đi bản tánh sáng suốt vốn có; tuy hành trọn ngày mà không tự giác thì sẽ vào trong các nẻo khổ”.
Hòa thượng lại nói: “Tất cả chúng sanh xưa nay tròn đầy. Trên từ chư Phật, dưới đến tất cả hàm thức cùng bản tánh thanh tịnh; vì sanh ra một niệm vọng động nên liền bị đắm nhiễm trong ba cõi, vì chúng sanh hữu niệm mà giả nói vô niệm. Hữu niệm nếu không thì vô niệm cũng không! Vô niệm, vô sanh. Vô niệm tức vô diệt, vô niệm tức không yêu, vô niệm tức không ghét, vô niệm tức không chấp thủ, vô niệm tức không xả bỏ, vô niệm tức không cao, vô niệm tức không thấp, vô niệm tức không nam, vô niệm tức không nữ, vô niệm tức không phải và vô niệm tức không quấy. Ngay trong các lúc vô niệm thì vô niệm cũng không phải thế! Tâm sanh thì các pháp liền sanh, tâm diệt thì các pháp liền diệt. Nếu tâm như thế thì tội cấu cũng thế và các pháp cũng thế! Ngay trong lúc vô niệm, tất cả các pháp đều là Phật pháp, không có một pháp nào lìa Bồ Đề cả!”.
Lại nói: “Do vọng mà có sanh, do vọng mà có diệt; nên sanh diệt đều gọi là vọng. Diệt vọng gọi là chân, đó chính là đại Niết Bàn, là vô thượng Bồ Đề của Như Lai”.
Hòa thượng nói pháp xong, y nhiên chẳng lay động. Bộc xạ nghe nói, chắp tay bạch hòa thượng: “Con là chủ vùng đất này, đáng lẽ phải ra xa nghênh đón. Nhưng vì công việc không làm thế được, nên xin hòa thượng chớ trách! Con trước là Tây thượng Binh mã sứ. Chùa của hòa thượng ở núi Bạch Nhai, không phải là chùa của ai! Nếu có chỗ cần thì con sai Nha tiền Ngu hầu đem cúng dường hòa thượng”. Hòa thượng nói: “Người tu hạnh Bát Nhã Ba La Mật thì trăm thứ cũng chẳng cần!”. Lại nói: “Người chỉ cần biện tâm, còn chư thiên biện cúng. Tâm biện là gì? Đó là không cầu tâm biện, không tham tâm biện, không nhận tâm biện và không nhiễm tâm biện. Phạm thiên không cầu, phạm thiên tự đến. Quả báo không cầu, quả báo tự đến. Vô lượng trân báu, không cầu mà tự đến”. Lại nói: “Biết đủ là người rất giàu, ít ham muốn thì rất an vui”.
Bộc xạ nghe hòa thượng nói xong, liền chắp tay đảnh lễ. Pháp sư Thanh Nguyên làm lễ, rồi bạch hòa thượng: “Khi tiểu sư con nghe pháp xong thì lưới nghi liền trừ. Nay con xin nương theo hòa thượng, mong hòa thượng từ bi nhiếp thọ”. Song, pháp sư Vô Doanh cứ kiêu ngạo xấc xược, chợt biến sắc. Hòa thượng hỏi pháp sư Vô Doanh rằng có biết chủ khách không. Pháp sư đáp: “Dẫn các pháp tướng, rộng dẫn văn nghĩa”. Hòa thượng nói: “Pháp sư không biết chủ khách rồi! Cố nhận bụi bám lúc trước để chảy rót vào tâm sanh diệt, rồi tự cho rằng hiểu biết; giống như nấu cát mà muốn thành cơm ngon thì kể đến kiếp số cũng chỉ thành cát chín. Chỉ tự dối mình và dối người!”.
Kinh Lăng Già chép: “Theo lời mà lấy nghĩa, gầy dựng nên các pháp. Vì chuyện gầy dựng kia, nên chết bị đọa trong địa ngục”.
Pháp sư Vô Doanh nghe nói, nghiêng mình ngồi qua một bên. Hòa thượng hỏi pháp sư rằng không nghĩ nhớ có mấy loại. Pháp sư đáp: “Không rành thì không nghĩ nhớ! Lạ quen không nghĩ nhớ, thay đổi không nhớ, công phu khéo léo không nhớ và oai nghi không nhớ”. Hòa thượng lại hỏi: “Sao gọi là có ghi nhớ?”. Pháp sư đáp: “Ý thức thứ sáu là có ghi nhớ”. Hòa thượng nói: “Ý thức thứ sáu là điên đảo thức. Tất cả chúng sanh không ra khỏi ba cõi đều do ý thức. Khi ý không sanh thì liền vượt ra ba cõi. Cạo đầu cắt tóc đều là đệ tử Phật. Không cần học có ghi nhớ, nhưng không thể học mà không ghi nhớ. Pháp sư thời nay đều học không ghi nhớ mà không trụ nơi Đại Thừa. Thế nào là Đại Thừa? Đó là trong tự chứng, không loạn động là Đại Thừa vô thượng. Đại Thừa vô thượng của ta vượt khỏi danh ngôn, nghĩa ấy rất rõ. Kẻ ngu không giác ngộ. Người giác ngộ biết các tình thức vốn vắng lặng không sanh, đó gọi là Giác”.
Pháp sư Vô Doanh nghe nói, ngậm miệng không lời. Hòa thượng bảo: “Không nhớ có hai loại: Một làcó ngăn che nên không nhớ, hai là không ngăn che nên không nhớ. Ý thức thứ sáu đến năm thức nhãn đều thuộc về có sự ngăn che nên không ghi nhớ. Từ thức thứ sáu trở xuống cho đến thức thứ tám đều thuộc về không ngăn che, không ghi nhớ, đều là gượng danh mà nói. Lại thêm vào thức thứ chín là thanh tịnh thức, cũng chính là đối lập. Hòa thượng dẫn kinh Lăng Già: “Tám mươi chín loại thức như sóng ở các biển, tập khí luôn thêm lớn, gốc rễ vững chắc. Nương tâm, theo cảnh giới mà trôi chảy như sắt gặp nam châm, như thác nước chảy hết thì sóng không tuôn dậy. Thế thì ý thức diệt, các thứ thức không sanh và các thứ ý sanh thân. Ta nói về tâm lượng, được pháp không suy nghĩ, Phật tử chẳng phải thinh văn”.
Pháp sư Vô Doanh nghe nói, chỉ khen mà không thể nghĩ bàn. Hòa thượng lại hỏi: “Kinh Lăng Già chép : Lấy nêm rút nêm. Nghĩa này thế nào?”. Pháp sư Vô Doanh đáp : “Ví như nẻ tách cây trước đóng nêm lớn, sau đó đóng nêm nhỏ để rút nêm lớn”. Hòa thượng bảo: “Nếu lấy nêm nhỏ nhổ được nêm lớn ra thì khi nêm lớn đã lấy ra, nêm nhỏ vẫn nằm kẹt trong đó. Vậy thì làm thế nào dùng nêm để rút nêm ra?”. Pháp sư rốt cuộc không có lời lẽ để đáp lại. Hòa thượng liền giải đáp: “Nêm dụ cho phiền não của chúng sanh. Nêm giả cho ngôn giáo của Như Lai. Nêm phiền não đã không thì pháp cũng không cần nữa, vì có bệnh thì mới cho phương thuốc chữa trị. Nếu bệnh đã hết thì phương và thuốc đều bỏ. Nay pháp sư chấp vào ngôn ngữ để giáo pháp, như người bệnh theo phương cách trị mà không chịu uống thuốc. Không bỏ văn tự thì chẳng khác nào như nêm còn kẹt trong cây. Kinh Lăng Già chép : Ví như lấy ngón tay chỉ vật, trẻ con nhìn ngón tay mà không nhìn đến vật. Theo lời nói của ngón tay mà sanh chấp trước thì cho đến trọn đời rốt cuộc cũng không thể xả bỏ các ngón tay văn tự để đạt được đệ nhất nghĩa”. Hòa thượng lại hỏi pháp sư về ý nghĩa của Tam Bảo – Tứ Đế và hỏi nghĩa của Tam Thân. Pháp sư rốt cuộc không dám đáp lại mà chỉ khen hòa thượng là bậc không thể nghĩ bàn.
Quan bộc xạ nghe thuyết pháp xong, càng thêm vui mừng, nói: “Đệ tử ngày hôm ấy sợ hòa thượng ở lâu trong sơn môn, đối đáp với Đỗ tướng công không được, rất lo lỡ cơ duyên. Sư tăng cả vùng Tam Xuyên chưa có một người đối đáp được ý Đỗ tướng công. Khi thấy hòa thượng, Đỗ tướng công nói với đệ tử rằng: “Đạo sư chân thật là do trời đất đặc đạt, so với các tăng sĩ khác thì cách biệt rất xa, khen ngợi không thể nghĩ bàn!”. Đệ tử nghe Đỗ tướng công nói, mừng rỡ nhảy cởn không thôi. Đệ tử có phước, giờ đây không còn buồn lo!”. Các quân tướng thảy đều vui mừng không thể nói được, bèn đảnh lễ mà lui.
Lúc bấy giờ, sư Thể Võ ở Đông Kinh là bậc cao vời trong tăng, đi mọi nơi tìm sư học đạo, giới luật oai nghi và các pháp sự đều thông thạo, giỏi biện luận, cũng xưng là thiền sư, chính là đệ tử của thiền sư Hoằng Chánh ở chùa Thánh Thiện; cùng với nhóm Đậu Thừa ở Tấn Nguyên, Khứ Thái ở Phương Lý, Tô Thừa ở Thanh Thành và phán quan Châu Hiệp tìm đến tham vấn hòa thượng và thẳng đến thiền đường. Hòa thượng thấy họ đến, liền tự nhiên mời ngồi.
Sư Thể Võ hỏi: “Hòa thượng là đệ tử của ai và nối tiếp tông chỉ của ai?”. Hòa thượng đáp: “Là tông chỉ của Phật và là đệ tử của Phật. Xà Lê cắt tóc đắp y thì tức là đệ tử của Phật. Cần gì phải hỏi! Tông chỉ của ta nương vào liễu nghĩa kinh, không nương vào chẳng liễu nghĩa kinh. Có nghi thì mặc ý thưa hỏi!”. Sư Thể Võ biết hòa thượng là đệ tử của hòa thượng Kim, bèn nói mỉa: “Ít thấy người Kiếm Nam nào không khởi tâm. Thiền sư đánh người mà bảo không đánh, giận người lại bảo không giận, có thí cúng đưa nhận mà bảo không nhận. Thể Võ mổ chẳng hiểu rõ việc này!”. Hòa thượng đáp: “Tu hành Bát Nhã Ba La Mật, không thấy người báo ân, không thấy người làm ân. Đã không có chỗ nhận mà nhận là chưa đủ. Phật pháp cũng không diệt thụ. Vô Trụ ta từ khi mới phát tâm cho đến nay, chưa từng nhận một sự phát thí nào!”. Sư Thể Võ nghe thế, nhìn các quan nhân, nói rằng: “Lời lẽ của thiền sư độc địa quá!”.
Hòa thượng hỏi sư Thể Vô: “Xà Lê đã nhận mình là thiền sư, sao lại khởi tâm đánh người, khởi tâm giận người và khởi tâm thọ thí ?”. Sư Thể Vô tự biết đã mất tông chỉ nên sợ hãi tái mặt, im lặng hồi lâu không nói, đoạn hỏi hòa thượng có hiểu rõ kinh Lăng Già không. Hòa thượng đáp: “Hiểu chính là không hiểu”. Các quan nhân về hùa với hòa thượng: “Thiền sư chỉ nói thôi, cần gì phải cật vấn!”. Hòa thượng bảo các quan nhân: “Nếu nói thì e rằng các quan nhân không tin”. Các quan nhân đáp: “Tin chứ!”. Hòa thượng liền nói: “Nếu ta nói đủ thì e có người nghe, tâm lại cuồng loạn và hồ nghi chẳng tin”. Hòa thượng lại dẫn kinh Lăng Già :
Người ngu ưa lời vọng
Không nghe huệ chân thật
Lời là gốc ba cõi
Chân thật diệt nhân khổ
Nói thì liền biến đổi
Chân thật lìa văn tự
Ở vọng tướng tâm cảnh
Ngu sanh hai thứ kiến
Không biết tâm và duyên
Chính khởi hai vọng tướng
Rõ tâm và cảnh giới
Vọng tướng liền không sanh.
Thể Võ nghiên cứu nghĩa dẫn kinh Pháp Hoa có ba thừa. Hòa thượng dẫn kinh Lăng Già: “Người ngu si kia, nói có ba thừa, không nói chỉ do tâm, không các cảnh giới. Tâm không hiểu biết, sanh động niệm tức là lưới ma”.
Lại dẫn kinh Tư Ích: “Thế nào là tất cả các pháp đều chánh? Thế nào là tất cả các pháp đều tà? Nếu dùng tâm phân biệt thì tất cả các pháp đều tà. Nếu không dùng tâm phân biệt thì tất cả các pháp đều chánh. Ngay trong pháp vô tâm mà khởi tâm phân biệt thì đều tà”. Thiền sư Huệ Ức, người đương thời gọi là Lý Sơn tăng, hỏi hòa thượng rằng: “Lấy thiền sư phương Bắc thì làm sao nhập tác?”. Hòa thượng đáp: “Thiền sư không Nam, cũng không Bắc; không nhập tác, cũng không xuất tác; không được, cũng không mất; không chảy, cũng không tuôn; không chìm, cũng không nổi; tự do hoạt bát”. Huệ Ức nghe xong, chắp tay cúi đầu.
Có Sư Nghĩa Tịnh, sư Xử Mặc và sư Đường Uẩn là đệ tử của thiền sư Huệ Minh, muốn được cùng bàn luận Phật pháp với hòa thượng. Hòa thượng hỏi: “Xà Lê hiểu rõ kinh luận gì ?”. Sư Đường Uẩn đáp: “Hiểu Bách Pháp Luận, từng làm giảng sư”. Hòa thượng thỉnh nói, Đường Uẩn đáp: “Ở trong có năm pháp vô vi, ở ngoài có năm pháp hữu vi, gồm nhiếp tất cả các pháp”. Hòa thượng dẫn kinh Lăng Già rằng:
Hữu vi và vô vi
Đối mọi người tu hành
Không nên khởi phân biệt
Kinh kinh nói vọng tướng
Rốt không ra khỏi danh
Nếu lìa ở lời nói
Cũng không có nói gì.
Đường Uẩn nói với sư Nghĩa Tịnh: “Xin Xà Lê hỏi đi!”. Nghĩa Tịnh liền hỏi hòa thượng: “Thiền sư không làm gì nên bày ra ngồi thiền?”. Hòa thượng đáp: “Không phải bày ra mà chỉ là ngồi thiền chơi thôi!”. Nghĩa Tịnh không hiểu, hỏi Xử Mặc: “Nghĩa này ra sao?”. Xử Mặc cũng không hiểu, lại khiến sư Nghĩa Tịnh tự hỏi. Hòa thượng biết họ không hiểu, bèn hỏi Nghĩa Tịnh: “Xà Lê hiểu kinh luận gì ?”. Đáp: “Hiểu Bồ Tát giới, từng làm giảng sư”. Hòa thượng hỏi: “Giới lấy gì làm thể và lấy gì làm nghĩa?”. Nghĩa Tịnh không đáp được, bèn nói lời bẩn: “Chẳng phải ta không hiểu, chỉ vì ta thử ông thôi! Như kiểu ngồi thiền chơi thì ta ngại không làm”. Xử Mặc nói lời huyên thiên: “Ta ghét chậm chạp nên không làm, ta ghét buồn phiền nên không làm, ta ghét biếng trễ nên không làm, ta không vào chỗ trây lười và u tối”. Hòa thượng nói với các ông: “Lý như như, đủ tất cả trí. Pháp Đại Thừa vô thượng của ta vượt qua danh ngôn. Nghĩa ấy rất rõ, chỉ do người ngu không hiểu biết thôi! Vô Trụ ta cùng các Xà Lê nói một duyên khởi: Tại một xóm làng nọ, lúc sáng sớm, có tiếng đứa trẻ gào khóc. Người láng giềng nghe thế, liền đến xem, thấy bé bị mẹ giận đánh. Người hàng xóm hỏi: “Vì sao đánh bé?” Người mẹ đáp: “Vì nó đái dầm”. Người hàng xóm mới quát người mẹ rằng : “Đứa bé này còn thơ ngây, vì sao bà lại đánh nó?” Lại nghe tiếng gào khóc ở chỗ khác, người hàng xóm liền đến hỏi, thấy người đàn ông khoảng 30 tuổi bị mẹ dùng gậy đập. Người hàng xóm hỏi: “Cớ gì đập hắn?” Người mẹ đáp: “Đái dầm”. Người hàng xóm nghe thế, nói rằng: “Người lớn biết cách mà còn cố đái dầm, vậy càng phải đánh cho đau! ” Loại tăng như các ông ví như voi ngựa, đánh đòn mà không thuần thì phải tăng thêm cách độc địa để phải đau đớn thấu xương!”.
Hòa thượng lại nói thêm cho họ hiểu: “Muốn cầu cái vui tịch diệt thì phải học pháp sa môn. Vô tâm lìa ý thức, đó chính là pháp của sa môn. Các A Xà Lê cắt tóc đắp y và tự nói mình là đệ tử Phật mà không chịu học pháp sa môn. Miệng nói ghét lười biếng không làm, ghét trễ nhác không làm, và ghét ngu chậm không làm, thì đó chẳng phải là sa môn Thích tử mà chính là loài chồn rừng. Phật có nói rõ rằng trong đời vị lai, sẽ có người thân mặc cà sa, nói quàng với đời, hủy hoại chánh pháp của ta, ví như dùng tay chỉ vật. Hàng ngu si phàm phu chỉ xem ngón tay mà không xem vật; theo chỗ nói của ngón tay mà sanh lòng chấp trược; cho đến hết đời, rốt cuộc cũng không thể xả bỏ cái ngón tay văn tự; theo lời nói mà chấp nghĩa và kiến lập ở các pháp; do sự kiến lập kia mà khi chết bị đọa trong địa ngục”. Các ông tăng nghe nói xong, đều sững sờ tái mặt và cáo từ mà lui.
Sư Tịnh Tạng ở chùa Thắng Quang, đất Tây Kinh, nghe đồn hòa thượng là bậc không thể nghĩ bàn, liền từ phương xa đến để nương tựa. Hòa thượng hỏi:“Vì sao ông biết ta là bậc không thể nghĩ bàn?”. Sư Tịnh Tạng đáp: “Biết y bát của hòa thượng Kim đã truyền cho hòa thượng”. Hòa thượng hỏi: “Do đâu mà biết?”. Tịnh Tạng đáp: “Kẻ tăng người tục đều nói pháp mạch của hòa thượng đích truyền thọ nhau. Hòa thượng được pháp của hòa thượng Kim. Tiểu sư có phước, nhiều may mắn mới được gặp hòa thượng”. Nói xong, Tịnh Tạng bèn làm lễ. Hòa thượng hỏi: “Trước đây, ông học kinh luận gì?”. Đáp: “Tiểu sư từng xem Duy Ma chương sớ, lại cũng học ngồi thiền, là tông chỉ của Thái Bạch”. Hòa thượng liền nói pháp: “Không nhớ nghĩ là đạo, không quán xét là thiền, không chấp mà cũng không xả, cảnh đến thì cũng không duyên theo. Nếu xem chương sớ thì tức là tướng niệm động lên; nếu học tông chỉ Thái Bạch, tông chỉ tọa thiền thì tức là ý tướng phan duyên; nếu muốn ở lại đây thì sở học một đời đều chẳng lưu giữ tại tâm”. Cuối cùng, hòa thượng hỏi sư Tịnh Tạng có chịu được hay không. Tịnh Tạng đáp: “Được! Nhờ hòa thượng từ bi chỉ dạy, con một mực vâng giữ phép tắc của hòa thượng”. Hòa thượng xét thấy Tịnh Tạng đủ sức làm bậc pháp khí, nên lại nói pháp với ông:
“Mọi vật ở nơi tâm, không ngoài ba cõi. Hữu pháp là tục đế, vô tánh là đệ nhất nghĩa đế. Lìa tất cả các tướng, liền gọi là chư Phật. Vô niệm tức vô tướng, hữu niệm tức luống dối. Vô niệm thì ra khỏi ba cõi, hữu niệm thì ở trong tam giới. Vô niệm tức không phải, vô niệm cũng tức không quấy. Vô niệm tức không mình, vô niệm tức không người. Ta mình đều lìa, thành Phật Bồ Đề. Ngay trong lúc vô niệm, vô niệm chẳng phải vô niệm”.
Tịnh Tạng nghe nói, vui mừng nhảy cởn, liền xin hòa thượng cho đổi pháp hiệu, gọi là Siêu Tạng, luôn ở bên cạnh để tiếp đỡ hầu hạ hòa thượng.
Tri Nhất sư là đệ tử của thiền sư Giác ở chùa Khai Nguyên – Lũng Châu. Người thời bấy giờ gọi sư là Chất Trực tăng. Sư đến nương tựa hòa thượng. Hòa thượng hỏi: “Ngươi từ đâu đến ?”. Tri Nhất đáp: “Từ Lũng Châu đến”. Hòa thượng hỏi: “Là đệ tử của ai?”. Tri Nhất đáp: “Đệ tử của hòa thượng Giác”. Hỏi: “Hòa thượng Giác là đệ tử của ai ?”. Đáp: “Là đệ tử của hòa thượng Lão Phước”. Hòa thượng bảo: “Nói chỗ tự tu hành của ngươi xem!”. Sư Tri Nhất bèn trình lời dạy của bổn sư: “Khán tịnh”. Hòa thượng liền thuyết pháp:
“Pháp không dơ sạch, vì sao lại khán tịnh? Trong đây, sạch không có lập thì lấy đâu mà có dơ? Vậy khán tịnh tức là dơ, khán dơ tức là tịnh. Vọng tướng là dơ, không chấp ngã là sạch. Không nhớ nghĩ thì không có dơ, không nhớ nghĩ thì không có sạch. Không nhớ nghĩ thì tức là không có phải, không nhớ nghĩ thì tức là không có quấy. Không nhớ nghĩ thì tức là không mình, không nhớ nghĩ thì tức là không người. Mình và người đều lìa, thành Phật Bồ Đề. Ngay lúc chính mình thì tự mình không phải là mình”.
Sư Tri Nhất nghe thuyết pháp, ngay nơi lời nói ấy mà ngộ đạo, liền ở luôn chỗ thuyết pháp, rốt cuộc không dời đổi chỗ khác nữa! Hòa thượng thấy sư Tri Nhất có chí tánh thuần hậu và lòng trung hiếu, bèn sửa đổi danh hiệu, gọi sư là Siêu Nhiên. Sư luôn ở sát bên hòa thượng và vui vẻ thừa hành công việc.
Sư Trung Tín ở Đặng Châu, trước kia đọc rộng Thi Thơ, bản tính là con nhà Phật nho nhã, bỏ hết sự nghiệp, đến nương nhờ hòa thượng, nói rằng: “Trung Tín là người biên cảnh vùng biển, từ xa đến nương nhờ hòa thượng”. Nói xong, Trung Tín làm lễ. Hòa thượng đáp: “Đạo thì không có xa gần, sao ngươi lại còn nói xa gần?”. Trung Tín khải bạch hòa thượng: “Sanh tử là việc lớn. Nghe hòa thượng có lòng đại từ bi, nên con đến nương nhờ hòa thượng, không duyên theo áo cơm, cúi xin rõ xét!”. Hòa thượng nói: “Người học phần nhiều lo nghĩ rộng. Nếu ngươi chịu bỏ chỗ sở đắc thì cứ mặc ý mà ở đây!”. Trung Tín đáp: “Sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam tâm. Thân mạng còn chẳng tiếc, văn tự có sá gì!”. Hòa thượng liền nói pháp : “Tôn giả Đại Giác Tôn nói sanh vô niệm pháp. Vô niệm sanh tâm, tâm thường sanh không diệt. Tự tại trong mọi thời, chẳng đuổi chẳng xoay, chẳng nổi chẳng chìm, chẳng chảy chẳng tuôn, chẳng động chẳng lay, chẳng đến chẳng đi. Tự do hoạt bát, đi ngồi đều là thiền”. Sư Trung Tín nghe nói, nghiễm nhiên chẳng động! Hòa thượng thấy thế, rõ là sư đã hiểu Đại Thừa, liền cho đổi pháp danh là Siêu Tịch. Sư thường ẩn kín trong núi, đêm thì ra làm công việc mà chẳng để người biết, ngày thì trở lại chỗ cũ trong núi.
Pháp sư Pháp Luân hiểu rõ kinh Niết Bàn chương sớ, thông minh học rộng, xem quanh mình chẳng ai ra gì, tự cho là đệ nhất, nên đến chùa để hỏi khó hòa thượng. Từ xa, Pháp Luân thấy hòa thượng có thần oai lạ lùng không giống chư tăng, bèn đến làm lễ và hỏi han chào lạy. Hòa thượng từ xa thấy, biết là pháp sư, liền mời ngồi và hỏi: “Pháp sư hiểu rõ kinh luận gì?”. Đáp: “Hiểu rõ kinh Niết Bàn”. Hỏi: “Hiểu rõ kinh Niết Bàn thế nào?”. Pháp sư liền dẫn các chương sớ. Hòa thượng nói: “Đó chẳng phải là kinh Niết Bàn mà chỉ là lời nói. Lời nói là gốc của ba cõi, chỉ có chân thật mới diệt nhân khổ. Nói năng thì liền biến khác, chân thật lìa khỏi văn tự. Bồ tát Cao Quý Đức Vương hỏi Thế Tôn: Sao gọi là Đại Niết Bàn? Phật đáp: Dứt hết mọi động niệm, bặt mọi tư tưởng. Pháp tướng như thế gọi là Đại Niết Bàn. Sao pháp sư lại đem nói năng vọng tưởng mà cho là Niết Bàn ? Nếu nói như thế thì tức là không hiểu, vậy sao nói hiểu kinh Niết Bàn?”.
Sư Pháp Luân nghe nói, không dám có lời đối đáp. Hòa thượng hỏi: “Hữu vi pháp là tục đế, vô tánh là đệ nhất nghĩa đế. Nói hiểu tức là bị ràng buộc, thông minh là ma thí cho. Vô niệm tức là không ràng, vô niệm tức là không buộc. Vô niệm là Niết Bàn, hữu niệm là sanh tử. Vô niệm là thông minh, hữu niệm là ngu tối. Vô niệm tức không kia, vô niệm tức không đây. Vô niệm tức không Phật, vô niệm tức không chúng sanh. Trí Bát Nhã đại bi, không Phật không chúng sanh. Không có Phật Niết Bàn, cũng không có Niết Bàn Phật. Nếu hiểu rõ như thế thì mới là người thật hiểu biết vậy! Còn nếu không hiểu như thế, là chấp tướng phàm phu!”. Sư Pháp Luân nghe nói, cúi đầu quy y, nói rằng: “Tiểu sư lâu ngày mê mờ, hôm nay được gặp hòa thượng như mắt mù lại sáng. Cúi xin hòa thượng từ bi thu nhận đệ tử”.
Hai huynh đệ tăng ở chùa Thiền Lâm tại Tuy Châu đều thọ trì kinh Pháp Hoa, người đương thời gọi là sử Pháp Hoa. Người anh có pháp danh là Nhất Hạnh, còn người em là Huệ Minh. Hai người đến để nương theo hòa thượng. Hòa thượng hỏi: “Các ngươi từ phương nào đến, trước đã học giáo pháp gì?”. Huệ Minh đáp: “Chúng con từ Tuy Châu đến, trì kinh Pháp Hoa, ngày tụng ba biến”. Hòa thượng hỏi : “Phẩm An Lạc Hạnh nói: Tất cả các pháp rỗng suốt không chỗ có, không có thường trụ mà cũng không có khởi diệt, đó gọi là chỗ thân gần của người trí”. Huệ Minh nghe nói xong, thưa rằng: “Tiểu sư mê muội, chỉ biết y theo văn mê tập tụng, chứ chưa hiểu nghĩa lý. Cúi xin hòa thượng tiếp dẫn kẻ mê mù!”. Hòa thượng liền nói pháp: “Tướng vắng lặng của các pháp, không thể dùng lời nói bàn, là pháp không thể chỉ bày. Tướng ngôn từ vắng lặng, lìa tướng, diệt tướng thì thường được tịch diệt tướng; rốt cuộc trở về không, luôn khéo vào hạnh không tịch thì hằng hà sa số Phật tạng, một niệm liền rõ biết! Nếu muốn được ở trong núi này thì các ngươi chẳng tụng tập và thường rảnh rỗi thanh thản, chịu không?”.
Hai huynh đệ biết tụng tập là không rốt ráo, nên quyết quy y hòa thượng. Hòa thượng nói tiếp: “Vô niệm tức không sanh, vô niệm tức không tử. Vô niệm tức không xa, vô niệm tức không gần. Vô niệm tức là sử Pháp Hoa, hữu niệm tức là Pháp Hoa sử. Vô niệm tức là chuyển Pháp Hoa, hữu niệm tức là Pháp Hoa chuyển. Chính ngay trong lúc vô niệm, vô niệm không phải là vô niệm”. Hai huynh đệ nghe xong, tâm ý khơi bày, bèn ở trong núi mà vui vẻ làm công việc.
Phu nhân Mộ Dung trưởng sứ ở Khánh Châu là người họ Tinh, dốc lòng cầu Đại Thừa. Cả nhà lớn nhỏ đều theo bà đến lễ bái hòa thượng. Hòa thượng hỏi: “Phu nhân từ nơi nào đến ?”. Đáp: “Đệ tử từ xa nghe hòa thượng là bậc đại từ bi, cho nên đến lễ bái”. Hòa thượng liền nói các pháp yếu. Người nữ nghe nói, chắp tay quỳ mọp kiểu người Hồ và khải bạch hòa thượng: “Đệ tử là người nữ, mang ba chướng năm nạn – chẳng đặng làm Phạm thiên, chẳng đặng làm Đế Thích, chẳng đặng làm Ma vương, chẳng đặng làm Chuyển Luân Thánh vương, chẳng đặng làm Phật – thân không tự tại. Nay con đến để quy y hòa thượng và định cắt đứt nguồn sanh tử. Cúi xin hòa thượng chỉ bày pháp yếu!”. Hòa thượng nói: “Nếu được như thế, tức là bậc đàn ông đại trượng phu, sao gọi là nữ được!”. Hòa thượng bèn nói pháp yếu: “Vô niệm tức không nam, vô niệm tức không nữ. Vô niệm tức không ngăn, vô niệm tức không ngại. Vô niệm tức không sanh, vô niệm tức không chết. Chính ngay trong lúc vô niệm, vô niệm cũng không phải là vô niệm, đó là cắt đứt hẳn nguồn sanh tử”.
Người nữ nghe nói, mắt không chớp động, đứng yên không dời chỗ trong khoảng chừng bữa ăn. Hòa thượng biết người nữ có tâm quyết định, nên cho pháp hiệu là Thường Tinh Tấn, bà mẹ hiệu là Chánh Biến Tri, xuống tóc tu hành và đứng đầu trong các ni sư.
Sau, phu nhân dẫn cô em bạn dì họ Vi là cháu gái của Tô Tể tướng, thông minh sáng suốt, học rộng biết nhiều, không có câu hỏi nào mà đáp chẳng được! Cô đến lễ bái hòa thượng. Hòa thượng thấy dáng vẻ cứng rắn và ý chí vững mạnh, liền nói pháp: “Pháp đó chẳng phải nhân, chẳng phải duyên; chẳng phải không, chẳng phải chẳng không; là lìa, cũng chẳng phải lìa. Tất cả các tướng tức là tất cả các pháp. Pháp vượt khỏi nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân và tâm. Pháp lìa tất cả quán hành. Vô niệm tức không hành, vô niệm tức không quán; vô niệm tức không thân, vô niệm tức không tâm; vô niệm tức không sang, vô niệm tức không hèn; vô niệm tức không cao, vô niệm tức không thấp. Ngay trong lúc vô niệm, vô niệm cũng không phải là vô niệm”.
Người nữ nghe nói xong, chắp tay bạch hòa thượng: “Đệ tử là người nữ, tội chướng sâu nặng. Nay con nghe pháp rồi, chướng dơ tiêu trừ”. Nói xong, người nữ cảm động, buồn bã khóc ròng, nước mắt như mưa, đoạn xin pháp hiệu là Liễu Kiến Tánh. Được pháp hiệu xong, người nữ tự cạo tóc đắp y, đứng đầu trong các ni sư.
Ai người báo ân Phật?
Hành giả theo pháp tu
Ai người tiêu cúng dường?
Việc đời không lôi dắt
Ai người kham cúng dường?
Ở pháp không chấp thủ
Nếu hay làm như thế
Có thiên trù cúng dường.
Hòa thượng nói với các đệ tử : “Bắt mình theo người, muôn việc đều hòa hảo. Bắt người theo mình, muôn việc bị cạnh tranh không thôi!”. Lại nói kệ rằng :
Một niệm mảy may quán tự tại
Chớ cùng đồng học tranh đạo lý
Thấy cảnh tức là bậc trượng phu
Không rõ thì đồng loài súc vật
Chỉ tự mình tu hành
Chớ thấy tà chánh người
Miệng ý không khen chê
Ba nghiệp tự nhiên tịnh
Muốn thấy tâm Phật quốc
Khắp kính tánh Chân như
Thiện nam tử tâm tiếc nuối dứt thì tâm đạo nhãn khơi mở, sáng như mặt trời. Nếu có mảy may nào còn tâm tiếc nuối thì đạo nhãn liền bị che mờ. Đây là hầm lớn tối tăm, nếu không hiểu rõ ràng thì thật biết khó hiện ra”. Lại nói kệ rằng:
Ý huống của ta nay rất tốt
Đi, đứng, ngồi, nằm đều rõ
Khi nhìn không có vật nhìn được
Rốt ráo không lời nào để nói
Nhưng được trong ý huống này
Đầu kê gối cây tới sáng.
Những liễu nghĩa mà hòa thượng dẫn ở chư kinh, chẳng những chỉ pháp môn tâm địa, mà còn phá ngôn thuyết. Những điều hòa thượng nói là lời nói không thể nói ra. Nay xin các bạn đồng học nên nương theo nghĩa mà tu hành, không nên chấp trước vào lời nói; nếu chấp trước vào lời nói thì tự mình mất phần tu hành.
Kinh Kim Cang chép: “Nếu chấp lấy tướng của pháp tức là chấp trước vào ta, người và chúng sanh. Nếu chấp lấy tướng của phi pháp tức là chấp trước vào ta, người và chúng sanh. Vì thế, không nên chấp pháp và không nên chấp phi pháp. Do nghĩa ấy mà Như Lai thường nói: “Tỳ kheo các ông nên biết ta nói pháp, dụ như thuyền bè. Pháp còn phải bỏ, huống gì phi pháp!”.
Kinh Hoa Nghiêm chép:
Ví như người bần cùng kia
Ngày đêm đếm của báu người
Phần mình không có một xu
Nơi pháp không tu hành
Đa văn cũng như thế
Như điếc tấu âm nhạc
Người nghe, mình không nghe
Nơi pháp không tu hành
Đa văn cũng như thế
Như mù bày các cảnh
Người thấy, mình không thấy
Nơi pháp không tu hành
Đa văn cũng như thế
Như đói dọn cơm cho người
Người no, ta bụng đói
Nơi pháp không tu hành
Đa văn cũng như vậy
Ví như người lái tàu
Hay đưa đến bờ kia
Người đi, ta chẳng đi
Nơi pháp không tu hành
Đa văn cũng như thế.
Kinh Pháp Cú chép :
Người chỉ nói suông về ăn
Rốt lại không thể no bụng
Kinh Phật Đảnh chép:
A Nan dù nhớ nhiều
Không khỏi rơi tà kiến
Giác quan xuất tư duy
Thân tâm không thể kịp
Nhiều kiếp tuy đa văn
Nhưng không bằng một ngày
Tu hành vô lậu pháp.
Kinh Phương Quảng chép :
Một niệm loạn thiền định
Như giết Tam Thiên giới
Cả mọi người trong đó
Một niệm an thiền định
Như cứu sống Tam Thiên giới
Cả mọi người trong đó.
Kinh Duy Ma chép: “Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài, đó là ngồi yên nghỉ. Nếu được như thế, Phật sẽ ấn khả cho! Không đem tâm sanh diệt mà nói thật tướng pháp. Pháp qua khỏi nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và tâm. Pháp lìa tất cả quán hành. Pháp tướng như thế, há nói được hay sao? Thế nên, bồ tát Văn Thù Sư Lợi khen ngợi ông Duy Ma Cật, không có nói năng, mới thật vào trong pháp môn bất nhị”.
Hòa thượng nói: “Pháp vô niệm là pháp vốn không vô niệm”.
Lại nói: “Tri kiến khởi biết, tức là gốc của vô minh. Tri kiến mà không thấy, tức là Niết Bàn, là vô lậu thanh tịnh chân thật”.
Lại phá bệnh biết:
Biết hành cùng vắng lặng
Tức là đạo Bồ Đề
Lại phá bệnh trí:
Trí cầu ở nơi trí
Không được chỗ khen ngợi
Trí cũng không thể được
Do không có chỗ được
Tức Bồ Đề tát đỏa.
Lại nói:
Cái ngộ đã tròn đầy
Trở về nơi không chỗ được
Không có chút pháp nào có thể được
Đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại phá bệnh vốn: “Thế nào gọi là vốn? Tất cả chúng sanh vốn xưa nay thanh tịnh, vốn xưa nay tròn đầy; có vốn tức có lời, vì cớ có lời nên tâm có chọn gom tóm. Người hiểu biết được tiện lợi tức là luân hồi sanh tử, lìa mình, lìa người, tức không nơi nương dừng. Mình và người đều lời, thành Phật giác ngộ. Phật không có gốc cảnh tướng, không thấy tên thấy Phật, ở trong khoảng không rốt ráo mà lẫy lừng kiến lập nên.
Lại phá bệnh trong sạch, bệnh Niết Bàn, bệnh tự nhiên, bệnh giác, bệnh quán, bệnh thiền và bệnh pháp: “Nếu trụ trong đó, tức là có trụ bệnh. Pháp không sạch không dơ, lại cũng không có Niết Bàn và không có Phật. Pháp lìa khỏi quán hành và siêu nhiên rõ ràng. Thức ấm bát Niết Bàn xa lìa giác về cái chỗ giác, không vào trong tam muội, không trụ nơi tọa thiền và tâm không có được mất”.
Lại phá bệnh một: “Một cũng không phải là một, vì một phá tất cả các số. Gốc khi đã trở về nguồn thì sáu căn thành giải thoát, kềm chế chỗ một đó thì không việc gì không thành! Sum la và vạn tượng đã ấn khả một pháp. Gốc một chẳng khởi, ba dụng không thi hành, tâm kia chẳng tính toán là có sức đại quán. Các ngươi nên xa lìa chúng của mình và chúng của người. Mình tức là tự tánh, người tức là vọng niệm. Vọng niệm không sanh, tức là mình và người đều lìa, thành Phật giác ngộ”.
Hòa thượng thường nói: “Có duyên thì muôn dặm đều thông, không duyên thì người đối mặt cũng chẳng biết nhau. Nhưng ngay khi biết pháp, tức là thấy Phật. Các kinh nầy là kinh liểu nghĩa”.
Hòa thượng dưới tòa bình thường dạy về giới cho người học đạo. E rằng họ sợ dính mắc vào lời nói, nên hòa thượng thường dẫn chuyện dẫm đạp phải con cua ở trong ruộng mà hỏi. Mọi người không lãnh hội nên hòa thượng lại dẫn thơ của Vương Phạm Chí:
“Huệ nhãn gần không tâm
Chẳng mở đầu lâu rỗng
Trước mặt nói chẳng biết
Dù là con bà Đỗng”.
Vài lão nhân đến hỏi hòa thượng: “Bọn đệ tử đây đều có vợ con, quyến thuộc nam nữ đều bỏ cả để nương nhờ học đạo nơi hòa thượng. Hòa thượng nói: “Đạo không có hình đoạn có thể tu, pháp không có hình đoạn có thể chứng. Chỉ ở không nhàn rỗi, không nhớ, không nghĩ trong mọi lúc thì đều là đạo”. Hòa thượng hỏi: “Các lão nhân có hiểu không?”. Các lão nhân im lặng không đáp. Cho rằng chưa lãnh hội, nên hòa thượng lại nói kệ :
“Vợ là gông cùm
Con là xiềng xích
Người là đầy tớ hèn
Đến già chẳng được thả”.
Lại nữa, các sư tăng ở Kiếm Nam đến Đài Sơn để lễ bái hòa thượng. Khi từ giã hòa thượng, Ngài hỏi: “Đại đức đi đâu?”. Tăng đáp: “Lễ Văn Thù Sư Lợi”. Hòa thượng nói: “Như đại đức đây, Phật ở trong thân tâm mình. Văn Thù chẳng xa, vọng niệm không sanh tức là thấy Phật. Cần gì phải lao nhọc đi xa!”. Các sư tăng vẫn muốn đi. Hòa thượng lại nói kệ:
“Kẻ mê rong đây đó
Quanh núi lễ bờ non
Văn Thù không có đó
Bỏ Phật tìm Di Đà”.
Hòa thượng đang uống trà. Hôm ấy, Lang quan Thị khanh ở mạc phủ gồm 30 người đến lễ bái hòa thượng. Họ ngồi xong, bèn hỏi: “Hòa thượng rất thích trà?”. Hòa thượng đáp: “Phải”, rồi nói kệ về trà:
“Hang kín sanh cỏ linh
Làm môi giới vào đạo
Chú tiểu hái lá cây
Vị ngon vào dòng ngòi
Lặng lẽ lắng rỗng thức
Tâm tỏ soi hội đài
Chẳng nhọc khí lực người
Cao vót pháp môn khai”.
Các Lang quan nhân đấy mới hỏi hòa thượng: “Vì sao hòa thượng không dạy người đọc kinh, niệm Phật và lễ bái? Bọn đệ tử chẳng hiểu!”. Hòa thượng đáp: “Tự chứng Niết Bàn rốt ráo, ta cũng dạy người khác như thế! Không nên chạy theo giáo nghĩa của Như Lai mà mình không hiểu! Hãy trở về mà hiểu chính mình và ngộ chính mình! Sơ học Phật ấn, người đó liền thẳng đến được tam muội”. Nói xong, hòa thượng nghiễm nhiên chẳng động. Các Lang quan Thị khanh đều nói chưa từng có vậy!
Các Lang quan hỏi hòa thượng: “Duyên cớ gì mà hòa thượng không dạy pháp sự tướng?”. Hòa thượng đáp: “Lý mầu của Đại Thừa, chí lý rộng lớn. Vì chúng sanh hữu vi nên không thể vào trong giáo chỉ chủ yếu của kinh. Bản tánh của chúng sanh, thấy tánh tức là Phật đạo, chấp tướng thì liền nổi trôi chìm đắm. Tâm sanh thì các pháp liền sanh, tâm diệt thì các pháp liền diệt. Tụng kinh và lễ bái đều là khởi tâm, mà khởi tâm tức là sanh tử và không khởi tâm tức là thấy Phật”.
Các Lang quan lại hỏi hòa thượng: “Như thế, hòa thượng dạy người được không?”. Hòa thượng đáp: “Được! Khởi tâm tức là trần lao, động niệm tức là lưới ma. Tất cả các pháp hữu vi như bọt nước mộng huyễn, như sương tan điện chớp, nên phải quán như thế!”. Các quan nghe nói, lưới nghi liền trừ bỏ, đều xin làm đệ tử của người.
Lại có vài mươi đạo sĩ cùng vài mươi người ẩn Nho trên núi, cũng có chừng hai mươi vị pháp sư, luật sư và luận sư đều là những bậc lãnh tụ ở Kiếm Nam. Hòa thượng hỏi một đạo sĩ rằng: “Đạo mà có thể nói được thì chẳng phải là đạo ! Danh mà có thể gọi được thì chẳng phải là danh ! Há chẳng phải do Lão Tử nói đó sao?”. Đạo sĩ đáp: “Phải”. Hòa thượng hỏi: “Vậy tôn sư có hiểu nghĩa này không?”. Đạo sĩ im lặng chẳng đáp. Hòa thượng lại hỏi: “Vì học gọi là ích, vì đạo gọi là tổn. Tổn thì lại càng tổn đến nỗi vô vi, vô vi nhưng không có gì bất vi”.
Hòa thượng lại hỏi: “Trang Tử nói: Nuôi sống thì không phải sống, còn sát sanh thì không chết!”. Đạo sĩ không dám đáp. Hòa thượng nói: “Đạo sĩ thời nay không có một người nào học theo đạo của Lão quân mà chỉ học phỉ báng Phật mà thôi!”. Các đạo sĩ nghe xong, tái mặt chắp tay.
Hòa thượng hỏi các ẩn Nho: “Phu Tử nói kinh Dịch phải không?”. Sơn nhân đáp: “Phải”. Hòa thượng lại hỏi: “Phu Tử có nói về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín không?”. Đáp: “Có nói”. Lại hỏi: “Khi dịch lý thì thế nào?”. Người ẩn cư ở núi không đáp. Hòa thượng nói: “Dịch cho vô tư là vô vi vậy! Yên lặng chẳng động, cảm rồi lại thông! Nghĩa này như thế nào?”. Ẩn Nho trên núi không dám đáp.
Hòa thượng rốt cuộc nói rằng: “Dịch chẳng biến chẳng đổi, đó là bổn tánh của chúng sanh. Vô tư, vô vi, yên lặng chẳng lay động, đó là bổn tánh của chúng sanh. Nếu không biến đổi, không suy nghĩ, không hình tướng, tức là thi hành nhân – nghĩa – lễ – trí – tín. Như kẻ học Nho thời nay chẳng thấy bổn tánh, không biết chủ khách, gượng nhận trần lao trước và cho là học vấn thì lầm to! Phu Tử nói vô tư, vô vi rất rõ ràng”. Ẩn Nho hỏi hòa thượng: “Cảm thì liền thông, nghĩa như thế nào?”. Hòa thượng đáp: “Phạm thiên không cần cầu mà phạm thiên tự đến. Quả báo không cầu mà quả báo tự đến. Phiền não đã hết thì tập khí cũng trừ. Phạm Thích và Long thần, thảy đều cung kính. Do đó, Như Lai vào thành khất thực, tất cả cỏ cây thảy đều cúi đầu và tất cả núi sông đều nghiêng hướng về Phật, huống gì là chúng sanh! Đó là cảm thì liền thông vậy!”. Ẩn Nho cùng lúc lễ bái hòa thượng và nguyện làm đệ tử của Ngài.
Hòa thượng lại hỏi một đạo sĩ: “Cái được thượng đẳng là không có được mất, nên xem như có được. Cái được hạ đẳng do không có được mất nên xem như không được. Nghĩa này thế nào?”. Đạo sĩ nói: “Xin hòa thượng vì chúng con mà nói cho!”. Hòa thượng nói: “Người được thượng đẳng không có tâm sở đắc. Vì không có sở đắc tức là Bồ Đề tát đỏa, không có chút pháp nào có thể được, nên gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chính là nghĩa của được thượng đẳng. Được hạ đẳng cũng không được mất, do đó mà không được! Người được hạ đẳng do có sở cầu, mà nếu có sở cầu thì liền có phiền não. Tâm phiền não tức là được mất. Đây là nghĩa của được mất vậy!”.
Lại nói rằng: “Vì học gọi là ích, vì đạo gọi là tổn. Nếu có người học mà chỉ ghét trần lao sanh tử thì đó là không có ích vậy! Vì đạo là tổn, ngay tổn thêm tổn cho đến vô vi. Vô vi mà không gì không làm! Đạo tức là bổn tánh, cùng cực của đạo là bặt đứt nói năng, vọng niệm chẳng sanh, tức là ích vậy! Khi quán tâm vương, tất cả đều lìa bỏ, tức là có ích. Cho đến ở nơi vô vi lúc tánh không lặng lẽ, thấy pháp ấy thì đúng vô vi mà không có gì không làm, tức là không trụ ở nơi vô vi. Tu hành không khởi, không nên lấy việc không khởi để chứng. Tu hành ở nơi không, không lấy không cho là chứng. Đó chính là nghĩa không có gì không làm vậy!”.
Lại nữa, Trang Tử nói: “Nuôi sống thì không sanh, vọng niệm chẳng dấy, tức là không sanh. Sát sanh thì không chết. Nghĩa của không chết tức là vô sanh vậy!”.
Lại nói: “Đạo mà có thể nói được thì chẳng phải là đạo, tức là bổn tánh của chúng sanh. Lời lẽ không thể nói bàn được, tức là đạo chẳng thường. Danh mà có thể gọi được thì chẳng phải là danh, cũng là bổn tánh của chúng sanh. Nếu có nói năng thì đều không thật nghĩa. Danh ấy, từ ấy, pháp chẳng thể nói, tức là danh chẳng thường vậy!”.
Đạo sĩ nghe xong, chắp tay hỏi hòa thượng: “Nếu nương theo thuyết này thì Phật và Đạo giáo chẳng hai”. Hòa thượng nói: “Không phải vậy! Trang Tử và Lão Tử đều nói vô vi, vô thường, nói lý một, nói tịnh và nói tự nhiên. Phật không nói như thế! Nhân duyên tự nhiên đều là hí luận. Tất cả hiền thánh đều là pháp vô vi, nhưng có sai khác. Phật không trụ nơi vô vi và không trụ nơi vô tướng, vì trụ ở vô tướng thì không thấy được Đại Thừa. Hàng Nhị Thừa say đắm trong tam muội, hàng phàm phu say đắm trong vô minh, hàng thanh văn trụ ở tận trí và hàng duyên giác trụ ở tịch tịnh trí.
Trí huệ của Như Lai
Sanh khởi không cùng tận
Trang, Lão, Phu Tử thuyết
Cùng bằng với thanh văn
Phật quở hàng thanh văn
Như kẻ đui người điếc
Dự lưu quả nhất lai
A La Hán bất hoàn
Các thánh nhân như thế
Tâm họ đều mê lầm.
Phật không rơi vào các số mà vượt qua tất cả. Pháp không có dơ sạch, pháp không có hình tướng, pháp không có động loạn, pháp không có nơi chốn và pháp không có lấy bỏ. Do đó, pháp vượt qua Khổng Khâu, Trang Tử và Lão Tử. Phật thường ở thế gian mà không nhiễm thế pháp và không phân biệt thế gian, cho nên kính lễ không có chỗ quán. Những điều Khổng – Lão nói, phần nhiều bị kẹt vào chỗ chấp, đều là cảnh giới của Nhị Thừa thanh văn”. Các đạo sĩ đảnh lễ, thảy đều xin làm đệ tử, đương nhiên tin nhận nghe pháp.
Hòa thượng hỏi các pháp sư: “Thế nào là Phật bảo? Thế nào là pháp bảo? Thế nào là tăng bảo?”. Các pháp sư im lặng không đáp. Hòa thượng nói: “Biết pháp tức là Phật bảo, lìa tướng tức là pháp bảo và vô vi tức là tăng bảo”.
Lại hỏi các pháp sư: “Pháp không dùng lời nói được, làm sao mà thuyết pháp? Này người thuyết pháp, không nói, không bày. Người nghe pháp ấy, không nghe cũng không được. Không có pháp có thể nói thì đó gọi là thuyết pháp. Thường biết Như Lai, là người không thuyết pháp, đó gọi là kẻ cụ túc đa văn. Còn pháp sư thuyết pháp thế nào?”. Pháp sư đáp: “Bát Nhã có ba loại: Một là văn tự Bát Nhã, hai là thật tướng Bát Nhã và ba là quán chiếu Bát Nhã”. Hòa thượng nói: “Tất cả các văn tự đều không thật, không có nơi nương tựa, đều đồng nhất vắng lặng, xưa nay không lay động. Pháp không thật không hư, pháp lìa tất cả quán hạnh”. Các pháp sư nhìn nhau, không đối được lời nào.
Hòa thượng hỏi các luật sư: “Thế nào là giới luật? Thế nào là quyết định tỳ ni? Thế nào là cứu cánh tỳ ni? Giới lấy gì làm thể? Luật lấy gì làm nghĩa?”. Các luật sư đều không dám đáp. Hòa thượng lại hỏi một luật sư : “Biết chủ khách không?”. Luật sư đáp : “Xin hòa thượng vì chúng con mà nói nghĩa của chủ khách”.
Hòa thượng nói: “Đến đi là khách, không đến đi là chủ. Tướng niệm không sanh thì không có chủ khách, tức là kiến tánh. Nghĩ suy muôn vàn, chẳng có ích cho đạo lý, chỉ luống động loạn và mất gốc tâm vương. Nếu không suy nghĩ, tức là không sanh diệt. Luật nghĩa là điều phục. Giới chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải sắc cũng chẳng phải tâm, mà là giới thể. Giới là bản tánh của chúng sanh, xưa nay vốn tròn đầy, xưa nay vốn thanh tịnh. Khi vọng niệm sanh thì liền trái với tánh giác mà hợp với trần lao, tức là phạm giới luật. Vọng niệm không sanh thì trái với trần lao và hợp với tánh giác, tức là giới luật đầy đủ. Khi niệm không sanh tức là cứu cánh tỳ ni, khi niệm không sanh là quyết định tỳ ni và khi niệm không sanh tức là phá hoại tất cả tâm thức. Nếu còn thấy trì giới tức là đại phá giới. Giới và chẳng phải giới, cả hai đều là một tướng. Người hay biết như thế, tức là bậc đại đạo sư. Thấy tỳ kheo phạm tội nặng, chẳng vào trong địa ngục; thấy hành giả thanh tịnh, không vào trong Niết Bàn; nếu trụ nơi cái thấy như thế là thấy bình đẳng. Luật sư thời nay nói xúc, nói tịnh, nói trì, nói phạm, tác tướng thọ giới, tác tướng oai nghi, cho đến đem việc ăn cơm tác tướng. Giả sử tác tướng liền cùng ngũ thông của ngoại đạo giống nhau, nếu không tác tướng tức là vô vi, chẳng nên có thấy! Vọng là dơ, không vọng là sạch. Chấp ngã là dơ, không chấp ngã là sạch. Điên đảo là dơ, không điên đảo là sạch. Giữ khuôn phép chỉ bó thân, nếu chẳng có thân thì không có chỗ bó. Nếu chẳng khắp tất cả thì sao gọi là được viên thông? Nếu nói các trì giới không thiện và không oai nghi, giới tướng như hư không, người trì giới là mê loạn nghiêng ngã. Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt.
Nếu tâm như nhiên, tội cấu cũng như nhiên, các pháp cũng như nhiên. Luật sư thời nay chỉ vì tiếng tăm lợi dưỡng, như mèo rình chuột, nhẹ nhàng từng bước, thấy đúng thấy sai, rồi sự xung giới hạnh. Đó đều là diệt Phật pháp, chứ chẳng phải là hạnh của sa môn”.
Kinh Lăng Già chép: “Đời sau này, sẽ có kẻ thân đắp cà sa, vọng nói lý có không, hủy hoại chánh pháp của ta. Đời vị lai, có kẻ ở trong pháp của ta làm người xuất gia, dối nói tỳ ni, làm hư loạn chánh pháp. Thà phá giới, chứ không nên hủy chánh kiến! Giới hạnh sanh lên cõi trời, tăng thêm các ràng buộc và chánh kiến được Niết Bàn”.
Luật sư nghe nói, sợ hãi tái mặt, run rẩy không an. Hòa thượng lại nói: “Lìa tướng, diệt tướng, thường tịch diệt tướng, rốt cuộc lại trở về không. Thường khéo vào trong hạnh không tịch thì hằng sa Phật tạng, một niệm liền rõ biết. Phật chỉ cho học giới luật trong 5 năm, sau 5 năm trở lên thì bỏ sư Tiểu Thừa mà tham học với sư Đại Thừa, học pháp không có nhân và ngã. Nếu chẳng như thế thì Phật rất quở trách”.
Các luật sư nghe nói xong, lưới nghi liền trừ và bạch hòa thượng rằng: “Tiểu sư mê muội đã lâu, nay giới luật đều bỏ cả. Nguyện hòa thượng từ bi nhiếp thọ!”, đoạn cùng làm lễ một lúc, cảm xúc rơi lệ mà khóc. Hòa thượng nói: “Không nhớ, không nghĩ! Tất cả các pháp không nhớ, Phật pháp cũng không nhớ, pháp thế gian cũng không nhớ, chỉ ở không rảnh rỗi, chịu không?”. Các luật sư đều nói: “Được”. Hòa thượng bảo: “Lúc thật được đó, tức là luật sư chân chánh, tức là kiến tánh. Chính đang lúc thấy, thấy cũng giống như lìa thấy. Thấy không thể đạt, tức là thấy Phật. Chính ngay lúc thấy, cũng không phải là thấy!”. Hòa thượng lại nói: “Khởi tâm tức là trần lao, động niệm tức là lưới ma. Chỉ thanh thản, chẳng chìm chẳng nổi, không xoay không chảy, tự do hoạt bát trong mọi lúc đều là thiền”. Các luật sư nghe xong, hớn hở vui mừng.
Hòa thượng hỏi các pháp sư và luận sư đã học hỏi những gì. Các luật sư đáp: “Hiểu rõ trăm pháp”. Hòa thượng nói: “Hiểu rõ trăm pháp là trăm tính toán, không hiểu gì cả là không tính toán, mà không tính toán tức là vô niệm, vô niệm tức là vô thọ. Vô niệm tức là không mình, vô niệm tức là không người. Vì chúng sanh hữu niệm mà giả nói vô niệm, nên đang lúc vô niệm đó thì vô niệm lại không phải là vô niệm”.
Hòa thượng lại hỏi một luận sư: “Ông hiểu rõ kinh luận gì?”. Đáp: “Hiểu Khởi Tín Luận”. Hòa thượng nói: “Khởi tức là không tin, tin tức là không khởi”. Hòa thượng lại hỏi: “Luận lấy gì làm tông?”. Luận sư không đáp được. Hòa thượng nói: “Luận lấy tồi tà hiển chánh làm tông”.
Luận rằng: “Người lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, lìa tướng niệm sanh đồng hư không, khắp pháp giới không chỗ nào không khắp. Như luận sư nay chỉ hiểu miệng nói phương thuốc, chẳng biết chủ khách, đem tâm sanh diệt trôi chảy để giảng giải kinh luận thì thật sai lầm!”.
Luận rằng: “Lìa lời nói thì liền chấp trước vào lời nói, lìa danh tự thì liền chấp trước vào danh tự, chỉ là kẻ biết nuốt xơ mà không biết chất thịt của trái táo”.
Kinh Lăng Già chép: “Cho đến khi có tâm chuyển thì đó chính là hí luận. Người không khởi phân biệt là kẻ thấy tự tâm. Lấy không tâm ý và không thọ hành để hàng phục các ngoại đạo, đạt được tướng không ngăn ngại của các pháp và cúi đầu như hư không chẳng có chỗ nương tựa”. Luận sư nghe nói, chắp tay làm lễ.
Lại có sư Đạo U, pháp sư Hạo và luật sư Quan (pháp danh là Tự Viễn) hỏi hòa thượng: “Thiền kinh chép: Tham chấp vào mùi thiền, ràng buộc Bồ Tát”. Hòa thượng trả lời: “Các pháp sư chấp tướng và đắm nơi tướng, đó là bị cái buộc về chúng sanh”. Các ông lại hỏi: “Kinh chép: Người có trí tuệ nông cạn, căn tánh chậm chạp, kẻ chấp tướng kiêu mạn. Những hạng như thế thì làm sao độ được ?”. Hòa thượng nói: “Kinh chép: Lìa tướng, diệt tướng, thường tịch diệt tướng, pháp sư và luật sư các ông đều trái với lời Phật dạy. Chấp tướng, say đắm nơi tướng và vọng trước lấy trần lao mà cho là học vấn; như chó đuổi bóng, bóng càng thêm nhiều ! Vô Trụ ta đây không như thế, mà như sư tử bỏ bóng tìm người, bóng liền tiêu mất, tướng niệm huyên động. Ôm ấp thiên căn của mình và ngộ tánh an thiền, tức là trí vô lậu. Nếu tìm cầu ở ngoại tướng, dù trải qua số kiếp như vi trần, rốt cuộc lại không thể được! Rõ quán xét bên trong thì trong khoảng sát na liền thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Lúc ấy, có sư Quảng Khánh, sư Ngộ U, sư Đạo An và sư Đại Trí. Các sư tăng nói trên đều là đệ tử của thiền sư Kiên Thành, đến trước hòa thượng, ngồi xuống. Khi ấy, hòa thượng đang uống trà. Sư Ngộ U nói với hòa thượng: “Uống trà năm ba chén, lim dim mắt, ngồi giống như đứa vạm vỡ nắm lưng kẻ gầy yếu mà bóp thì dễ dàng quá!”. Hòa thượng nói với sư Ngộ U: “Đừng nói lời sằng bậy thế! Năm Vĩnh Thuần há chẳng ăn bánh bột bùn đó sao!”. Sư Ngộ U nghe xong, tái mặt. Hòa thượng nói: “Sư nay đem tâm thế gian sanh diệt mà do lường thiền định, thật là ngu si! Đây là cái dẫm đạp của voi rồng, không phải việc mà loài lừa chịu nỗi!”.
Hòa thượng lại nói với sư Ngộ U: “Vô Trụ nói cho sư một lời: Có một người vô tình đứng trên gò cao. Vài người đồng bạn đi trên lộ, từ xa thấy người đứng ở chỗ cao, bèn thay nhau bàn nói: Người này nhất định lạc mất gia súc. Người khác nói: Chắc là mất bạn bè! Một người nói: Đứng hóng gió mát. Ba người cùng nhau tranh cãi mà không định đoạt được! Họ bèn đi đến chỗ gò cao, hỏi người ở trên gò rằng có phải mất gia súc chăng. Đáp: Không mất! Lại hỏi: Mất bạn bè phải không? Đáp: Cũng không mất bạn bè. Lại hỏi: Đứng hóng gió mát chăng? Đáp: Cũng không hóng gió mát. Lại hỏi: Tất cả đều không thì duyên cớ gì mà đứng nơi gò cao? Đáp: Tôi chỉ đứng chơi khơi khơi thôi!”. Hòa thượng lại nói với sư Ngộ U: “Thiền của Vô Trụ không chìm không nổi, không trôi không chảy, nhưng thật có dụng. Dụng không có phải quấy, tự do hoạt bát trong mọi lúc đều là thiền”.
Pháp sư Hùng Tuấn hỏi hòa thượng: “Thiền sư có nhập định không?”. Hòa thượng đáp: “Định không có xuất nhập”.
Lại hỏi: “Thiền sư có vào trong chánh định không?”. Đáp: “Không vào trong chánh định, không chuyên chú tọa thiền. Tâm không có được mất trong mọi thời khắc đều là thiền”.
Lại có sư Pháp Duyên ở Lũng Hữu, họ Tào, từ xa nghe danh hòa thượng, bèn đem mẹ cùng đi theo, đến núi Bạch Nhai để lễ bái hòa thượng. Hòa thượng hỏi: “Ngươi giảng nói kinh luận gì?”. Đáp: “Giảng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật”. Hòa thượng hỏi: “Do ai giảng luận?”. Đáp: “Do Thiên Thân, Vô Trước Luận và các sư Hồn – Đàn – Đạt chú giải”. Hòa thượng hỏi : “Kinh chép : Tất cả chư Phật cho đến pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ kinh này ra. Thế nào là kinh này ? Cây hoàng bá là kinh này, giấy là kinh này và mực là kinh này?”. Sư Pháp Duyên đáp: “Thật tướng là Bát Nhã, quán chiếu là Bát Nhã và văn tự là Bát Nhã”. Hòa thượng bảo sư Pháp Duyên: “Tất cả các văn tự đều không thật, không có chỗ nương tựa, đều đồng như tịch diệt, xưa nay không có chỗ động và pháp lìa tất cả quán hạnh. Kinh chép: Pháp của ta không thật, không hư. Nếu nói Như Lai có thuyết pháp gì thì tức là phỉ báng Phật!”. Sư Pháp Duyên đáp: “Không thầy thì nương vào chương sớ để nói”. Hòa thượng bảo sư Pháp Duyên: “Chú giải của Thiên Thân, Vô Trước, Huy Đàn. sao bằng lời Phật nói!”. Pháp Duyên đáp: “Thật không bằng!”. Hòa thượng nói : “Đã không bằng thì duyên cớ gì mà không nương theo Phật dạy?”. Kinh Kim Cang chép: “Lìa tất cả các tướng, liền gọi là chư Phật ! Nếu lấy hình sắc để nhìn ta, lấy âm thanh để tìm ta thì người ấy đã đi lệch đường và không thể thấy được Như Lai!”. Kinh này tức là tâm này, thấy tánh thì thành Phật đạo. Vô niệm liền thấy tánh, vô niệm thì không phiền não. Vô niệm tức là không mình, vô niệm tức là không người. Vô niệm thì không có Phật, vô niệm thì không có chúng sanh. Ngay trong lúc vô niệm, vô niệm cũng không phải là vô niệm”. Pháp sư nghe xong, chắp tay bạch hòa thượng: “Pháp Duyên con có nhiều may mắn mới được gặp hòa thượng”. Phần mẹ già Pháp Duyên cũng cúi xin từ bi tiếp thọ và ở trong núi sát bên hòa thượng.
Bát Nhã Ba La Mật, không thấy người báo ân và không thấy kẻ tạo ân. Vô Trụ hành hạnh vô duyên từ hạnh, vô nguyện từ hạnh, bất nhiệt từ hạnh, vô ân từ, cũng không kia, cũng không đây; không hành pháp thượng trung hạ, không hành hữu vi vô vi, thật hay không thật pháp, không làm ích, không làm tổn, không có phước lớn, không có phước nhỏ; đem không có chỗ thọ nhận mà trao ở nơi thọ nhận, chưa đủ Phật pháp, cũng không có diệt thụ. Người nếu muốn sám hối thì cứ ngồi ngay mà quán niệm thật tướng. Vô niệm tức là thật tướng, còn hữu niệm tức là hư vọng. Sám hối chú nguyện đều là hư vọng”.
Hòa thượng lại nói: “Người nào báo ân Phật thì phải nương theo pháp mà tu hành. Người nào muốn thể nhận sự cúng dường thì phải không bị việc đời lôi dắt. Người nào tiêu được cúng dường thì phải ở nơi pháp không có chấp thủ. Vô niệm tức là không có chấp thủ, vô niệm tức là không xả. Vô niệm tức là không dơ, vô niệm tức là không sạch. Vô niệm tức là không ràng, vô niệm tức là không cởi. Vô niệm tức là không mình, vô niệm tức là không người. Đang lúc vô niệm, vô niệm không phải là vô niệm, vô niệm tức là Bát Nhã Ba La Mât. Bát Nhã Ba La Mật là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú; hay trừ mọi khổ ách, chân thật, không hư dối. Người đàn việt nào nhổ bật được gốc vọng tướng thì sẽ ngộ vào thể vô sanh. Cuốn vẹt nhiều tầng mây để mặt trời huệ soi sáng, nghiệp chướng liền rũ sạch, mở toang vọng tướng để định tâm, vắng lặng không lay động. Nghĩa của chân như, chẳng lý chẳng sự, không sanh không diệt, không động không lặng; hai đế đều soi, liền được thật sự thấy Phật. Đàn việt chỉ nương theo pháp này mà không lười nhác. Cần khai mở lối, tuy xa xôi cách nhau, liền thường gặp nhau, thấy không có khác vậy! Giả như trái với lý này, trôi chảy trong căn trần, suy nghĩ tranh nhau sanh ra tham nhiễm quá mức thì cho dù thường đối mặt nhưng ngăn cách nhau, khó mà nêu được vậy!”.
Môn nhân của hòa thượng truyền pháp đốn ngộ Đại Thừa tại chùa Đại Lịch Bảo Đường viết bài văn khen ngợi chân thật lẫn lời tựa.
Ẩn sĩ Tôn Hoàn thuật rằng : “Đạo không có tên, người ngộ đạo mới biết được phần gốc. Pháp không có hình tướng, người biết được pháp mới đạt được nguồn. Đạt được phần gốc tức là đạo, biết được đạo thể diệu hữu không có sanh. Biết pháp tức là nguồn, thấy được pháp tánh tròn sáng tự tại. Tại không có sở tại, tại không ở hướng này hay hướng kia. Sanh không có sở sanh, sanh chẳng có ranh giới có và không. Cho nên, Đức Thích Ca Văn Phật nói 12 phần giáo pháp đều ở nơi tâm, tức là nói cái chẳng có nói. Ngài hòa thượng ta, chỉ tám vạn trần tích, dạy chẳng thấy tánh, nên chỉ cái không có chỉ, khiến biết pháp lìa nói năng mà pháp chẳng do lời thì không sáng tỏ. Pháp lìa thấy nghe, nhưng pháp chẳng do thấy nghe thì không hiển bày. Nhân lời mà hiển nghĩa, được nghĩa thì quên lời. Thế nên, thuận theo lời mà nói, lời hiển thì pháp mất. Ngược lại với thấy nghe thì lời mất mà pháp hiển. Không có lời thì vô ngã, vô ngã thì vô vi. Thể của vô vi như lý của như như bất nhất. Bất nhất mà không bất nhất, thế mới thật gọi là giác ngộ! Tâm sáng sạch thù thắng, trọn khắp pháp giới, chính là hòa thượng ta. Ở nơi môn phong này, truyền thừa pháp này, chỉ bày ý nghĩa vô niệm, không động không lặng, nói pháp môn đốn ngộ, không nhớ không nghĩ, hòa thượng thường bảo môn nhân rằng: “Pháp tức là như thế, chẳng thể dùng lời nói mà bàn đến được! Tổ sư Đạt Ma Đa La ta truyền pháp yếu này, đời đời đích truyền nhận nhau. Đó là pháp môn bí mật của chư Phật, là Bát Nhã Ba La Mật, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế, còn gọi là bất nhị pháp môn, còn gọi là kiến tánh, còn gọi là chân như, còn gọi là Niết Bàn, còn gọi là thiền môn. Những tên gọi như thế là do chư Phật Như Lai quá khứ tạm nói, còn nghĩa chân thật thì không có danh tự”.
Lúc đó, môn nhân mỗ đây được dạy, bèn như lời thuyết giáo mà tu hành, đượm thắm pháp vị, cùng nhau khen ngợi rằng: “Thênh thang thay, như nhìn thấy bầu trời cao rộng, không mảy may hạt bụi. Bát ngát thay, như nhìn mặt biển bao la chẳng chút bến bờ ! Nhờ đó mà biết rõ đạo, vi diệu không tên, lời nói không thể bàn đến được. Cảm đội ơn đại sư thương xót con ngu mê mà chỉ bày chánh pháp, không do từng nấc bước lên dần dần mà tiến thẳng đến giác ngộ Bồ Đề. Nếu gặp những người cần học, con phải truyền bày. Không có bóng dáng thầy, làm sao con hiển bày được ? Con bèn nhờ thợ giỏi vẽ lại chân dung thầy. Dung mạo sáng rỡ, tướng tốt thành tựu. Kẻ nhìn thấy dung mạo thầy thì có thể ngăn tà. Người y theo pháp thì có thể đạt chỗ mầu nhiệm vô cùng, còn chỗ sâu chưa lường được! Cho nên, con cúi đầu chiêm ngưỡng, rồi cố gắng làm bài khen ngợi rằng : “Pháp tối thượng thừa, không lý chẳng sự, khéo nói nhiều cửa, đều về bất nhị. Ca Diếp được pháp, hoằng dương Phật. Đạt Ma nhận pháp, Đông truyền đất này. Sự việc có hơn ngàn năm, Tổ thánh có đến 34 vị, giòng giòng truyền trao, đời đời nối tiếp. Được pháp khớp với người đạo, truyền y biểu thị chân ngụy. Thầy ta ngầm thọ, công khai hiển bày, mở rộng bí môn của Phật, khơi rõ nghĩa trọn Đại Thừa, không xuôi theo pháp hữu vi, chẳng nương vào vô ký, xa lìa tánh tướng, chẳng trí chẳng ngu, nghĩa chẳng có không, có không chẳng nghĩa, vượt khỏi tâm phàm phu, vượt qua ý hiển thánh, vượt qua ba thừa, vượt khỏi 10 địa, không tự chẳng quả, không người không mình. Dùng lặng lẽ vô sanh, bóng hình đều lìa, thấy chẳng sáng tối là vô niệm vậy! Con bèn mời thợ giỏi âm thầm làm việc vẽ vời. Bút mòn tướng hiện, trông thấy ứng thân vòi vọi. Lìa tướng cạn lời, thấy pháp khí cuồn cuộn. Phải chăng do trời phú mà cốt cách khác đời? Lặng lẽ mầu nhiệm thay, rồi cũng vẽ được chân khí! Dáng chờn vờn như muốn nói, mắt nhay nháy như định nhìn. Ngước trông thì càng cao, nhìn ngắm thì càng quý! Không có thầy ta, pháp này hẳn sụp đổ”.
Ngày 3 tháng 6 năm thứ 9 niên hiệu Đại Lịch, hòa thượng bảo các môn đồ lấy y mới sạch để Ngài tắm rửa. Tắm rửa xong, hòa thượng mặc y mới sạch và hỏi đệ tử rằng giờ trai đã đến chưa. Đáp: “Đến rồi”. Hòa thượng dặn dò môn đồ đệ tử: “Nếu là đệ tử hiếu thuận thì không được trái lời ta. Ta sắp phải đi xa, sau khi ta đi rồi thì không được nhăn mày và khóc lóc giống như người không tu hành. Kẻ bụp mắt nhăn mày không phải là đệ tử của ta. Khóc lóc tức là pháp thế gian, Phật pháp thì không phải thế! Lìa tất cả các tướng thì thấy Phật!”. Nói xong, hòa thượng ngồi an nhiên mà hóa. Năm ấy, đại sư được 61 tuổi.
(Hiệu san Lịch Đại pháp bảo ký, quyển hạ)
Viên Giác mùa thu năm 1999
Thích Thiện Phước dịch
Vi tính: Phương Hoa
Thảo luận về post