ĐỌC CUỒNG VÂN TẬP – 狂雲集
CỦA THI TĂNG NHẤT HƯU
Đi tìm chân thực trong hư cấu
Biên soạn: Nguyễn Nam Trân
>>> Nội Dung Phim Hoạt Hình Phật Giáo Nói Về Cuộc Đời & Đạo nghiệp Của Thiền Sư NHẤT HƯU
>>> Phim Hoạt Hình Phật Giáo | NHẤT HƯU HÒA THƯỢNG | Full Trọn Bộ – 101 Tập | Chuatutam.net
Nhật Bản, quốc gia có truyền thống Phật giáo lâu đời, là quê hương của những bậc tu hành nổi tiếng như Kuukai, Saigyô, Dôgen, Daitô, Nichiren, Shinran, Rennyo, Eisai, Hakuin, Takuan… Tuy nhiên, có thể nói trong số các nhân vật ấy, chưa thấy vị nào giàu cá tính đến độ gây tranh cãi và ảnh hưởng đến văn hoá nước này một cách sâu rộng như Hòa thượng Ikkyuu (Nhất Hưu), tác giả Kyôunshuu (Cuồng Vân Tập), môt tác phẩm được xem như một thiền ngữ lục bằng thơ.
I) Ba cách nhìn Nhất Hưu:
Ikkyuu (Nhất Hưu, 1394-1481?), tăng nhân Nhật Bản tông Rinzai (Lâm Tế), thụy hiệu là Sôjun (Tông Thuần), được biết đến với nhiều biệt hiệu khác như Muukei (Mộng Khuê), Kyôunshi (Cuồng Vân Tử), Katsuro (Hạt Lư)… Ngoài ra, ông còn tự xưng mình là đồ tôn đời thứ bảy tăng Hư Đường (Kyodô shichise no mago) hay đồ tôn đời thứ năm tăng Đại Đăng (Daitô gose no mago), danh hiệu đặt theo hai tôn sư yêu kính. Ikkyuu sinh ra và sống vào giữa thời Muromachi (1392-1573), một thời đại nhiều biến loạn.
Ngày nay, ông được xem như một nhân vật lịch sử độc đáo vì có 3 đặc điểm.
Một, ông là vai chính của các truyện tếu hết sức thú vị mang tên Ikkyuu-tonchi banashi. Tonchibanashi 頓知咄ở đây có nghĩa là truyện hài hước (comic story) với nội dung ứng đối ranh mãnh. Kể từ thời Edo trở đi, người ta đã lục lọi từ các tư liệu của thời Muromachi liên quan đến ông để tạo ra một nhân vật Ikkyuu đầu óc thông minh và đóng khung hành trạng của ông trong những câu chuyện làm cho đông đảo đại chúng thích thú. Ikkyuu mang hình tượng một thiếu niên hay một lão già, có những hành động vượt ra ngoài khuôn phép sinh hoạt của thời kỳ Mạc phủ Edo[1]. Nhân vật đó với tài năng và cơ trí đã thoát ra được biết bao cảnh hiểm nghèo, tháo gỡ cứu giúp cho người gặp cảnh hoạn nạn, đấu lý làm im miệng những nhà sư có địa vị cao, dẫn dắt các cô gái buôn hương bán phấn về với lẽ đạo. Con người ấy còn sáng tác những bài đạo ca dễ hiểu để khai nhãn cho người đời.
Qua hình tượng Ikkyuu mà họ tạo ra, ta thấy người thời Edo là những kẻ yêu chuộng tự do, không thích bị câu thúc trong lễ nghi, chống đối lại quyền lực của truyền thống. Không những thế, tinh thần chống đối ấy được thể hiện bằng sự lanh lợi, ứng biến, dí dõm. Trong chiều hướng đó, hình tượng Ikkyuu trong các truyện tếu thời Edo không khác gì hình ảnh của một nhân vật hư cấu Việt Nam: Trạng Quỳnh thời Lê Trịnh, vốn cũng “sống” trong một giai đoạn chẳng xa gì với thời Muromachi và cũng hay bỡn cợt chính quyền lẫn người đời. Thế nhưng, chúng ta không thể dựa vào các truyện tếu thời Edo mà ngày nay manga và phim ảnh tiếp tục khai thác để có một cái nhìn trung thực và lịch sử về Hòa thượng Ikkyuu.
Hai, Nhất Hưu được biết như một vị cao tăng đạo mạo và đáng chán nếu đem so sành với nhân vật trung tâm các truyện tếu nói trên. Hình ảnh ấy đã được dựng lên trong niên biểu về ông: Tôkai Ikkyuu Ôshô Nenpu (Đông Hải Nhất Hưu Hòa Thượng Niên Phổ) mà từ đây xin gọi tắt là Nenpu. Tư liệu này có lẽ do một số đệ tử của ông soạn ra khoảng 10 năm sau khi tôn sư qua đời (1481). Thế nhưng chúng ta không thể nào tin tất cả những gì đã chép trong Nenpu. Chẳng hạn về ngày sinh tháng đẻ . Họ bảo ông sanh nhằm ngày Tết nguyên Đán (chính nguyệt nguyên nhật) năm Ôei (Ứng Vĩnh nguyên niên, 1394). Tập quán “đánh bóng” nhân vật bằng ngày sanh tháng đẻ như thế thường thấy ở thời xưa khi người ta kể tiểu sử vua chúa, cao tăng hay anh hùng. Ngoài ra việc Nenpu quả quyến rằng người kình địch của Ikkyuu và sư huynh của ông, hoà thượng Yôsô Sôi (Dưỡng Tẩu Tông Di), không hề nhận được ấn khả từ sư phụ của hai người (Hòa thượng Kasô Sôdon, Kesô Sôdon, Hoa Tẩu Tông Đàm, chùa Daitokuji) là một điều chưa chắc đã thỏa đáng. Những tư liệu đáng tin cậy đã trưng bằng cớ ngược lại. Còn câu chuyện khi Kasô truyền ấn khả cho Ikkyuu thì mấy lần ông đều không nhận và vứt xé đi cũng có khả năng là chuyện bịa đặt để tăng uy tín thầy mình và qua đó, uy tín của chính mình. Lý do là nó đi ngược lại với những lời Ikkyuu phát biểu lúc sinh tiền.
Cũng trong cùng một mục đích, thay vì thêm vào, họ đã bớt đi. Ví dụ, Nenpu không cho chúng ta thấy được chữ “dâm” (dâm sắc) nổi bật trong sinh hoạt của Ikkyuu. Cùng lắm, nó chỉ thể hiện bằng một cách nói gián tiếp như có đoạn bảo, thường ngày để bông đùa, tôn sư của họ có khi làm thơ nói về xóm lầu xanh.
Đối với người soạn Nenpu, tôn sư không hề là kẻ tinh nghịch ranh mãnh nhưng là nhà tu giác ngộ hoàn toàn. Ông không thể là ông sư phóng đãng mà chỉ là một kẻ đã siêu việt mọi dục vọng.
Tuy Nenpu gợi cho chúng ta nhiều thắc mắc về tính cách xác thực của nó nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu khi viết về Ikkyuu không làm cách nào khác hơn là dựa vào Nenpu như nguồn tư liệu chính. Kyôunshuu tuy là một nguồn tư liệu khác nhưng vì mang tính cách tác phẩm văn học, nó không thể nào tránh được tính hư cấu. Thành thử khi viết về Ikkyuu, công việc tách bạch đâu là thông tin kiểm chứng được chắc chắn, đâu là điều có thể tin cậy, đâu là ngộ nhận, sai lầm…là một việc rất khó.
Ba, Ikkyuu còn có một hình ảnh khác là nhà thơ tài hoa, người đã viết Kyôunshuu (Cuồng Vân Tập). Những bài thơ đậm màu sắc tình (erotic) qui ra hành vi sư phá giới của ông có thể được nhận ra nơi đây. Tuy nhiên, ông không chỉ làm thơ thuần túy dưới khía cạnh ấy mà thôi. Trong thi tập, người ta còn thấy có những bài với màu sắc siêu hình, đậm đà triết lý Phật giáo Thiền tông và những bài chỉ trích phong tục đồi phế trong các tự viện đương thời. Đặc biệt mũi dùi công kích của Ikkyuu thường chĩa về phía sư huynh Yôsô Sôi (Dưỡng Tẩu Tông Di) và tông phái ông ta. Nhiều khi lời lẽ nặng nề đi đến chỗ thoá mạ. Nhưng nhìn chung, Kyôunshuu có lẽ là một tác phẩm có một không hai trong văn học Nhật Bản. Nói theo kiểu Việt Nam, thì tác giả của nó, Ikkyuu, có thể là một nàng Hồ Xuân Hương trong trang phục nam nhi. Thực vậy, về tính dục chẳng hạn, có những bài thơ bày tỏ một cách trực tiếp, cực kỳ lộ liễu. Điều đó như chứng tỏ một sự tự tín về việc giác ngộ lẽ đạo, vừa nói lên tình cảm phẫn nộ, chán ghét cùng cực trong lòng người viết ra nó mà ta khó lòng tìm thấy trong ngôn ngữ thi ca ở đâu khác.
Tuy nhiên, qua tác phẩm, đôi chỗ nhà thơ của Kyôunshuu nhiều khi cũng tỏ ra bất nhất, tự mâu thuẫn. Do đó, rốt cuộc là việc tìm ảnh đích thực của Ikkyuu vẫn là một vấn đề nan giải cho những nhà nghiên cứu.
Trong Kyôunshuu, không chi tiết nào giúp ta biết thêm về cuộc sống trong đời thường của Ikkyuu. Thế nhưng, nó có thể cho thấy được phản ứng của ông đối với những tác động đến từ thực tế cuộc đời. Những phản ứng tuy đơn lẽ có thể kết hợp để đem đến cho ta hình ảnh thế giới của nhà thơ. Một câu như: Ngư hàng tửu tứ hựu dâm phường
chưa chắc đã giúp ta quả quyết rằng trên thực tế, Ikkyuu có lui tới các cửa hàng bán cá (ngư hàng), quán rượu (tửu tứ) và xóm lầu xanh (dâm phường). Ông có thể từng đến mà cũng có thể không, nhưng nó cho ta biết rằng ít nhất ông có lui tới những nơi đó “trong tưởng tượng”.
Để hiểu Ikkyuu lúc đó sống thế nào mà làm thơ như vậy, chắc cần nhìn lại thời đại của ông và những chi tiết trong truyện ký của ông do người xưa để lại. Theo Nenpu (Niên phổ), Ikkyuu sinh vào năm 1394 nhưng vì những lý do về tính xác thực đã trình bày bên trên, ta không thể tin hẳn nhưng có lẽ nó không xa sự thực là bao nhiêu. Ông sống trên 80 tuổi, nghĩa là mất vào khoảng năm 1481.
Đặc biệt vào thời điểm này, ở Nhật Bản, giữa các vũ sĩ đoàn không ngừng có những cuộc tranh chấp quyền lực. Nội loạn, đói kém, dịch lệ xảy ra không ngừng, đó là chưa kể các Ikki (nhất quĩ) tức là những cuộc nổi loạn của nông dân. Nội loạn thì đến cuối đời Ikkyuu, nó đã lan rộng ra đến qui mô toàn quốc. Đó là Loạn Ônin (Ứng Nhân, 1467-77). Hai đạo hùng binh của vũ sĩ Đông Tây đối mặt nhau, dày xéo kinh đô. Người thắng đem kẻ bại ra chặt đầu ở bãi sông Kamo (gọi là Kawahara bên cầu Rokujô) và cứ thế, cảnh thê thảm ấy diễn qua diễn lại. Ikkyuu thoát khỏi Kyôto về thôn Takigi và trú tại Shuu.on.an (Thù Ân Am). Thôn Takigi bị ngọn lửa chiến tranh lan đến, ông phải chạy loanh quanh các vùng lân cận như Yamato và Izumi. Nạn đói lại hoành hành khắp nơi, con số người chết lên đến hàng chục vạn (1461). Chính vào năm đó, Ikkyuu đã viết ba bài thơ nhan đề Gashi (Ngạ tử), có những câu: Cực khổ cơ hàn bách nhất thân, Mục tiền ngạ quỷ, mục tiền nhân.
Loạn Ikki tràn đến Kyôto (1457). Thế rồi chiến cuộc xảy ra ngay ngoài đường phố. Có thời kỳ, trạm canh, cửa ải cũng bị phá tan (1480). Không ai có thể chận đứng được họ, ngay các binh đoàn vũ sĩ. Ikkô ikki (Nhóm tôn giáo Nhất Hướng) nổi dậy ở Kaga vào năm 1474 cũng hoạt động mạnh vào thời này và chính quyền Mạc phủ Ashikaga vì quá yếu vì chia rẽ, không thể lập lại trật tự. Điều này khác hẳn với thời Tokugawa khi thế lực trung ương vững mạnh nên áp chế được tất cả. Phải chăng, hoàn cảnh chiến loạn như vậy là điều kiện thuận lợi để tôi luyện cá tính mạnh mẽ nơi con người Ikkyuu.
Chiến tranh xảy ra ở kinh đô cũng làm cho văn hoá tràn về địa phương theo bước chân của những người lánh nạn. Chính ra trước đó, kể từ thế kỷ 14 – như ghi lại trong quyển 7 của Taiheiki (Thái Bình Ký) – thể thơ renga (liên ca) đã được lưu hành trong dân chúng, từ giới quí tộc thượng lưu hay vũ sĩ cấp cao cho đến các vũ sĩ cấp thấp. Inryôken Nichiroku (Âm Lương Hiên Nhật Lục, tập nhật ký ghi chép sự việc trong khoảng 1435-66 và 1484-93 ) vào thế kỷ 15 cũng đã nhắc đến việc Shôgun và thường dân hay đến xem các cuộc trình diễn Sarugaku (Viên Nhạc, tiền thân của Nô) trên bãi sông Kamo ở Kyôto. Đó là một việc không hề thấy vào thời Heian về trước mà cũng không hề thấy vào thời Tokugawa về sau. Tsukubashuu (Trúc Ba Tập, 20 quyển, 1356) với thơ renga do quí tộc Nijô Yoshimoto và tăng Kyuusai thu thập và Shinsen Inu Tsukubashuu (Tân Tuyển Khuyển Thố Cửu Ba Tập, 20 quyển, 1495) thơ renga bình dân do Ôuchi Masahiro và Sôgi tuyển chọn, đã tiếp xúc và giao hòa với nhau. Các diễn viên Sarugaku biết đã phối hợp Nô sơ khai theo truyền thống của thời Heian với Kyôgen (Cuồng Ngôn) vốn là sản phẩm của thời đại.
Ikkyuu là người giao du rộng rãi trong giới thầy dạy renga và diễn viên tuồng Nô. Chắc chắn ông không xa lạ gì với tác phẩm Inu Tsukuba và thế giới của Kyôgen. Thế giới này cũng liên kết với thế giới dân ca (311 bài kouta = tiểu ca) thấy trong Kanginshuu (Nhàn Ngâm Tập, 1 quyển, tác giả vô danh, 1518).
Rõ ràng là Hán Thi của văn học Gozan (Ngũ Sơn, năm chùa Thiền lớn) không có những bài nào có chủ đề nhục cảm như thơ của Ikkyuu trong Kyôunshuu. Tuy nhiên, ngoài đời, vào thời đại của ông, người ta vẫn bàn về nhục cảm đấy thôi. Cả Kyôgen, cả Inu Tsukubashuu, cả Kanginshuu, lâu lâu đều có nói tới nó một cách trực tiếp. Điều này chứng tỏ văn hóa đại chúng đương thời khá thoáng về vấn đề bày tỏ về tình dục. Điểm đặc biệt của Ikkyuu không phải là việc ông trình bày vấn đề đó một cách lộ liễu nhưng là ông đã trình bày nó dưới dạng thơ “đáng kính” là thể thất ngôn tứ tuyệt. Trong ý nghĩa đó, trên còn đường tìm đến với đại chúng, là một người ở giữa Thiền lâm vốn có một khoảng cách với đại chúng, Ikkyuu phải có những vần thơ “vượt ra khỏi hình thức có sẵn” (katayaburi).
Nói về Thiền Tông Nhật Bản thời Kamakura thì có hai nhánh lớn là tông Sôtô (Tào Động) do Dôgen (Đạo Nguyên) mở ra và tông Rinzai (Lâm Tế) do Eisai (Vinh Tây) khai sáng. Sôtô lấy zazen (tọa thiền) làm gốc, hoạt động mạnh ở các địa phương. Trong khi ấy, Rinzai tập trung vào việc đón các nhà sư Trung Quốc trốn khỏi sự đàn áp của triều Nguyên sang Nhật. Như vậy Thiền Lâm Tế thừa kế được văn hoá Thiền truyền thừa từ đời Tống, có ảnh hưởng lớn đối với chính quyền vũ sĩ ở trung ương. Quyền lực mạc phủ sau đó đã tổ chức hệ thống năm ngôi chùa lớn gọi là Ngũ Sơn. Các chùa Rinzai trở thành chùa nhà nước (quan tự). Các chùa Ngũ Sơn có “tự cách” (ranking) cao hơn cả, dưới nó là Thập Sát, sau mới đến Chư Sơn. Chư Sơn không phải là các chùa nhà nước. Tiền bán thế kỷ 14, tăng Musô Soseki (Mộng Song Sơ Thạch, 1275-1351) đi song đôi với chính quyền của Ashikaga Takauji, người khai sáng Mạc phủ Ashikaga, đã mở ra Tenryuuji (Thiên Long Tự). Cùng lúc, Shuuhô Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu, 1282-1337) cũng nhờ mối quan hệ với Thiên hoàng Go Daigo mà nâng chùa Daitokuji (Đại Đức Tự) của mình lên, cùng với Tenryuuji thành hai ngôi chùa quan trọng vào bậc nhất trong hệ thống. Thế nhưng sau đó, phái Musô Soseki đã phát huy tiềm lực chính trị của mình để đạt đến quyền lực tối cao trong nhóm Ngũ Sơn. Đến cuối thế kỷ 14 (năm 1374) thì có chế độ “tăng lục”. Tăng quan gọi là tăng lục có quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm các tăng trụ trì chùa nhà nước. Người cháu của Musô là Shunoku Myôha (Xuân Ốc Diệu Ba, 1311-1388) đã đạt đến địa vị này. Trong khi đó, Daitokuji bị giáng cách, cuối thế kỷ 14, nó chỉ đứng vào hạng chót của các quan tự (vai thấp nhất trong thập sát, 1386). Đến đầu thế kỷ 15 (năm 1431) thì nó trở thành một chùa tư nhân không hơn không kém.
Cổng chùa Daitokuji
Ikkyuu nằm trong hệ thống Daitokuji cho nên có thể xem ông thuộc thành phần đối lập với hệ thống chính tức là các quan tự. Ông không còn được sự thư thái vật chất mà phải sống cuộc đời đạm bạc vì không còn được chính quyền bảo trợ. Có lẽ mang tâm tình đó mà ông đã đề nghị một lối sống Thiền mà màu sắc tôn giáo được coi trọng hơn màu sắc thế tục. Trong nội bộ thiền lâm, có tinh thần đối kháng lại các quan tự không chỉ có Daitokuji. Tông Sôtô (Tào Động) cũng chống. Bên ngoài thiền lâm thì phải nói Jôdo Shinshuu (Tịnh Độ Chân Tông) của tăng Rennyo (Liên Như, 1415-1499), người kế thừa sự nghiệp của các tổ Hônen (Pháp Nhiên) và Shinran (Thân Loan). Trước đây, ta có dịp nói đến cuộc nổi dậy của tông Ikko (Nhất Hướng). Rennyo từ sau khi rời bỏ Ikki đã đi xây Honganji (Bản Nguyện Tự) và sự kiện này cũng đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của Ikkyuu. Kyôunshuu không tỏ ra đặc biệt quan tâm đến giáo lý Sôtô nhưng ông cho thấy có sự đồng cảm với tổ Hônen và Jôdo Shinshuu (Tịnh Độ Chân Tông). Điều này ta sẽ còn có dịp trở lại sau. Tuy nhiên có thể nói ở đây rằng sự đồng cảm ấy một phần là do lập trường đối kháng chia sẻ bởi Daitokuji và giáo đoàn Hônen đứng trước quyền lực của các đại tự viện theo chính phủ. Hơn nữa, tình hình đương thời đã khiến cho thái độ phản kháng và phê phán của Ikkyuu trở thành một điều tất nhiên và không chỉ là kết quả của tương quan đối lập giữa Daitokuji và các quan tự trong nhóm Gozan mà thôi đâu.
Hệ thống của Daitokuji (Đại Đức Tự) phát nguyên từ dòng Thiền của cao tăng Kidô Chigu (Hư Đường Trí Ngu, 1185-1269) bên Trung Quốc. Như ta đã biết, Kidô xuất thân đồ tôn đời thứ 10 chi phái Yôki Hôe (Dương Kỳ Phương Hội, 992-1049). Yôki Hôe vốn là học trò lớn của Rinzai Gigen (Lâm Tế Nghĩa Huyền, ? – 866/867). Cao tăng Nhật Bản Nanpo Jômin (Đại Ứng Quốc Sư Nam Phố Thiệu Minh, 1235-1308), qua bên đó, thụ pháp của dòng Thiền Kidô rồi về nước tu hành ở Kenchôji (Kiến Trường Tự). Pháp tự của Nanpo chính là Shuuhô Myôchô (Đại Đăng Quốc Sư Tông Phong Diệu Siêu), người đã gầy dựng Daitokuji thành một ngôi chùa nổi tiếng. Môn hạ của Đại Đăng có hai người. Tettô Gikô (Triệt Ông Nghĩa Hưởng, 1295-1369) thì đã thế tập thầy mình ở Daitokuji còn đồng môn của ông là Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, 1277-1360) đi khai sơn Myôshinji (Diệu Tâm Tự). Người kế tiếp Tettsuô Gikô ở Daitokuji là Gongai Sôchuuu (Ngôn Ngoại, Tông Trung, ? – 1390). Pháp tự của Gongai là Kasô Sôdon (Hoa Tẩu Tông Đàm, 1352-1428). Ông này lại tu hành ở vùng Katata (Ômi) bên hồ Biwa và rốt cuộc không vào Kyôto để trở thành trụ trì Daitokuji. Kasô cũng có hai cao đồ. Một người là Yôsô Sôi (Dưỡng Tẩu Tông Di, 1379-1458) được nhắc đến bên trên. Còn người kia không ai khác hơn Ikkyuu Sôjun (Nhất Hưu, Tông Thuần) nhân vật chính của bài viết này. Yôsô là pháp huynh của Ikkyuu, lớn hơn ông độ 15 tuổi.
Tuy nhiên, giữa Yôsô và Ikkyuu là một sự đối đầu không khoan nhượng. Điều đó đã được bộc lộ rõ ràng qua hai tác phẩm của Ikkyuu là Kyôunshuu (Cuồng Vân Tập) và Jikaishuu (Tự Giới Tập). Hình như Yôsô đã nhận được ấn khả của Kasô vào năm 1414 và đến năm 1445, vào trụ trì ở Daitokuji và thành công trong việc vận động sự ủng hộ của các đàn việt có thế lực để đưa Daitokuji lên hàng một ngôi chùa tiêu biểu. Thế rồi từ đó về sau, học trò Yôsô là Shunpo Sôki (Xuân Phố Tông Hy) và lớp đồ tôn sẽ tiếp tục trụ trì ở đấy. Mặt khác, Ikkyuu thì – như tài liệu Nenpu (Niên phổ) đã cho biết – nhiều lần xé bỏ ấn khả trạng do Kasô ban cho. Chẳng những thế, ông không sống ở Daitokuji và cũng chẳng bao giờ ban ấn khả cho học trò. Ông chỉ ca ngợi nếp sống tu hành thanh cảnh đạm bạc của Shuuhô (Đại Đăng / Tông Phong Diệu Siêu), hay dẫn ra những lời giảng (pháp ngữ) của Tettsuô (Linh Sơn / Triệt Ông Nghĩa Hưởng) công kích sự xa xỉ trong thiền lâm và theo đường lối triệt để không thỏa hiệp của Kasô (Hoa Tẩu), thầy mình. Ông tự xem mình như đi thẳng tắp giữa truyền thống của Kidô (Hư Đường) đã vạch ra từ bảy đời trước cho nên hoàn toàn đứng ở một vị trí đối lập với pháp huynh Yôsô (Dưỡng Tẩu), người có vẻ tháo vát trong kinh doanh, đã đem đến sự giàu có cho Daitokuji. Sự khác biệt trong tính tình hai người đã thấy rõ. Một bên là thiên tài thi ca, một bên là ông “chủ xí nghiệp” mưu lược đã cứu Daitokuji đang đứng mấp mé bên bờ vực phá sản. Có thể hiểu rằng Yôsô không ngần ngại bán rẻ ấn khả trạng để có tiền nhanh và a dua theo lớp người quyền thế. Dưới con mắt của Ikkyuu thì đây là một hành động khinh sư bội đạo, trát tro trát trấu vào mặt Kasô. Thế nhưng, biết đâu trước kia, Kasô đã hiểu tính nết hai người học trò của mình hơn ai hết nên đã trao cho Yôsô (chứ không phải Ikkyuu) trách nhiệm vực Daitokuji dậy. Đời trước, Shuuhô (Đại Đăng / Tông Phong) cũng đã đem Tettsuô đặt vào Daitokuji và kêu gọi một người học trò siêu tục đang đi ở ẩn – Kanzan – đi mở ngôi chùa khác là Myôshinji (Diệu Tâm Tự). Phải chăng Kasô đã theo tiền lệ ấy mà giao cho Yôsô trách nhiệm phục hưng Daitokuji và mong đợi Ikkyuu nối tiếp dòng thiền chính thống của mình? Tuy nhiên, không có tư liệu nào đủ sức chứng minh ý đồ đó của Kasô và lập luận nói trên đến nay chỉ có giá trị của một giả thuyết
Cuộc đối đầu giữa Ikkyuu và Yôsô trở thành một yếu tố quan trọng để tìm hiểu về cuộc đời của ông.
*
Sau đây là khái lược về thân thế và hành trạng của Hòa thượng Ikkyuu dựa theo bài viết của nhà nghiên cứu Hirano Sôjô (Bình Dã, Tông Tĩnh). Ông đã soạn nó bằng cách dựa trên những tư liệu “chính thức” như hai tập Tôkai Ikkyuu Ôshô Nenpu (Đông Hải Nhất Hưu Hoà Thượng Niên Phổ) gọi tắt là Nenpu (Niên Phổ):
II) Thân thế và hành trạng Hòa Thượng Nhất Hưu:
1394 (1 tuổi):
Con tư sinh sinh ra trong đại tộc Fujiwara vào đúng ngày 1 tháng giêng.
1399 (6 tuổi):
Xuất gia ở chùa Ankokuji (An Quốc Tự), theo học Zôgai Shuukan (Tượng Ngoại Tập Giám) cũng gọi là Zôgai Kankô (Tượng Ngoại Giám Công), một cao tăng tđời thứ 3 thuộc hệ phái Musô / Mộng Song Sơ Thạch). Thời này, Ikkyuu có tên hiệu là Shuuken (Chu Kiến).
1406 (13 tuổi):
Vào chùa Đông tức Kenninji (Kiến Nhân Tự), học với Motetsu Ryuuhan (Mộ Triết Long Phàn). Ryuuhan là học trò Kurin Seimu (Cổ Lâm Thanh Mậu), nhân vật số một của văn phái Gozan (Ngũ Sơn). Ikkyuu tập làm thơ.
1410 (17 tuổi):
Mùa đông, đến Saikonji (Tây Kim Tự) theo hầu Kennô Sôi (Khiêm Ông Tông Vi, còn đọc là Ken.ô Sôi) tức học trò của Muin zenshi (Vô Nhân thiền sư, phái Kanzan / Quan Sơn đời thứ 4) chùa Myôshinji. Tương truyền Khiêm Ông là người rất khiêm tốn,, cương quyết không chịu nhận cả ấn khả thầy ban cho.
1412 ( 19 tuổi):
Đến chùa Sen.yuuji (Tuyền Dũng Tự) được một nhà sư của Ryuuhôzan (Long Bảo Sơn, một cách gọi khác khi nói về Daitokuji) cho biết đến đạo danh của Kasô Sôdon (Hoa Tẩu Tông Đàm) lần đầu tiên.
1414 (21 tuổi):
Tháng 12, thầy ông là Kennô Sôi viên tịch. Ông cũng không nhận ấn khả từ thầy mình vì thầy mình vốn chưa có.
1415 (22 tuổi):
Gặp cảnh mẹ chết. Đi đến vùng Katata (hay Katada), theo hầu Kasô Sôdon. Kasô là thiền tăng thuộc dòng Daitokuji của người khai sơn là Shuuhô Chôshô (Tông Phong Diệu Siêu), có lối tu hành nghiêm ngặt. Tương truyền về già, Kasô bị chứng đau lưng ngồi một chỗ, mọi việc phục dịch vệ sinh nhơ nhớp, khó khăn cho thầy, ông đều không từ nan.
1418 (25 tuổi):
Dưới sự chỉ đạo của Kasô, thấu triệt công án “Động Sơn tam đốn” (Ba hèo đòn của Động Sơn)[2]. Nhận danh xưng Ikkyuu (Nhất Hưu). Ikkyuu có nghĩa là dừng một chút để nghỉ ngơi (tiểu hưu chỉ)) nhưng cũng có thể hiểu là ngừng luôn. Trong một thế giới không phân biệt, ngừng lại có nghĩa là ở trong trạng thái trống không, đạt được tự do hoàn toàn, không cần làm gì nữa và đấy là con đường ngắn nhất để đến với đạo.
1420 (27 tuổi):
Ngày 20 tháng 5, nghe tiếng quạ kêu bỗng đại ngộ.
1422 (29 tuổi):
Giỗ lần thứ 33 Gongai Sôchuu, thầy của Kasô Sôdon và là trụ trì đời thứ hai Daitokuji.
1424 (31 tuổi):
Gặp gỡ Kigaku Myôshuu (Kỳ Nhạc Diệu Chu).
1425 (32 tuổi):
Tháng 3, Zenkô Shunsaku (Thiền Hưng Xuân Tác) chùa Tokuzenji (Đức Thiền Tự) soạn “Triệt Ông hòa thượng hành trạng” nói về Tettsuô Gikô.
1426 (33 tuổi):
Zenkô Shunsaku lại soạn “Đại Đăng quốc sư hành trạng” nói về Shuuhô Myôchô.
1428 (35 tuổi):
Ngày 27 tháng 6, thầy của Yôsô và Ikkyuu là Kasô Sôdon viên tịch.
1432 (39 tuổi):
Đi chơi vùng Izumi với Nankô Sôgan (Nam Giang Tông Nguyên).
1436 (43 tuổi):
Giỗ lần thứ 100 Đại Đăng Quốc Sư.
1442 (49 tuổi):
Vào ẩn cư trong núi Nhượng Vũ Sơn (Yuzuriha).
1447 (54 tuổi):
Mùa hạ, có vấn đề xảy ra ở Daitokuji. Lại lui vào núi Nhượng Vũ Sơn.
1448 (55 tuổi):
Ở lối ra vào của tăng phường Vĩnh Xương, lập Mãi Phiến Am (Am bán quạt).
1452 (59 tuổi):
Phía nam Mãi Phiến Am lại lập Hạt Lư Am (Am lừa mù, Katsuro-an). Hạt Lư hay Katsuro là biệt hiệu của Ikkyuu, lấy ý từ một câu phát biểu của Lâm Tế, tổ sư tông phái ông: “Sau khi ta chết, đạo của ta sẽ rơi vào tay một lũ lừa mù”.
1455 (62 tuổi):
Viết Jikaishuu (Tự Giới Tập), tác phẩm có nội dung khích bác sư huynh Yôsô Sôi.
1456 (63 tuổi):
Lập lại chùa Myôshôji (Diệu Thắng Tự) ở Takigi, nơi có tháp (chôn) Đại Ứng quốc sư tức Nampo Jômin (Nam Phố Thiệu Minh, 1235-1308), một tổ của dòng Lâm Tế Nhật Bản.
1458 (65 tuổi):
Sư huynh Yôsô Sôi nhập diệt.
Giữa năm 1459-1462 bão tố và lũ lụt tàn phá vùng Kyôto. Trên bờ sông Kamo, xác chết chồng chất. Ikkyuu làm nhiều bài thơ nói về nổi khổ người dân.
1460 (67 tuổi):
Giỗ lần thứ 33 của Kasô Sôdon.
1467 (74 tuổi):
Tháng 6, chiến tranh nổi lên trong các thành phố. Đó là cuộc Loạn Ônin (Ứng Nhân). Nó sẽ kéo dài 10 năm (1467-77). Ikkyuu phải về Shuuon.an (Thù Ân Am) lánh nạn. Mùa đông năm ấy, có hai tỳ khưu ni đến viếng.
1468 (75 tuổi):
Giỗ lần thứ 100 của Linh Sơn Triệt Ông tức Tettsuô Gikô.
1469 (76 tuổi):
Tháng 7, lửa chiến tranh lan đến cả Takigi. Ikkyuu lánh về Ôtsu bên hồ Biwa.Tháng 8, lại theo đường Nara đi đến Izumi, ngụ ở Shôsaian (Tùng Thê Am) ở Sumiyoshi.
1470 (77 tuổi):
Tháng 11, có dịp nghe cô con gái mù xinh đẹp tên là Mori tấu đàn tỳ bà ở Yakushidô (Dược Sư Đường) ở Sumiyoshi.
1471 (78 tuổi):
Mùa đông, tặng danh hiệu Gyokuen (Ngọc Viên) cho thị giả Tổ Tâm Thiệu Việt.
1474 (81 tuổi):
Ngày 22 tháng 2, được sắc chiếu cho vào Daitokuji. Điều đó xảy ra nhờ sự tiến cử của Hòa thượng Juuchuu (Nhu Trung) chùa Kôtokuji (Quảng Đức Tự) ở Amazaki.
1475 (82 tuổi):
Dựng Từ Dương Tháp trong Shuuon.an (Thù Ân Am) ở Takigi thuộc Kyôto. Đây là thọ tháp (sinh phần) của ông. Tháng 12, theo lời yêu cầu mọi người, viết “tam chuyển ngữ” (ba châm ngôn với lời lẽ sắc bén giúp người nghe khai ngộ) để thị chúng. Cũng trong năm này, bậc thầy trong ngành Renga là Sôchô (Tông Trường) đến Takigi thăm ông.
1477 (84 tuổi):
Mùa hạ, cho dựng Đa Hương Hiên ở phía nam Sàng Thái Am. Tháng 9, chạy loạn về Kojima thuộc Izumi. Tháng 10, trú chân ở Sumiyoshi.
1478 (85 tuổi):
Tháng 3, trở lại Takigi. Cuối mùa hè, ở Shuuon.an, khoác pháp y của Kidô (Hư Đường) và đọc kệ.
1481 (88 tuổi):
Từ tháng 4 đến tháng 7, cho sửa sang lại sơn môn Daitokuji. Gia đình thương gia giàu có ở thị trấn Sakai cũng là đệ tử của ông là Owa Sôrin (Vĩ Hòa Tông Lâm) tiến cúng cho chùa. Ngày 21 tháng 11, Ikkyuu nhập diệt ở Shuuon.an. Có để lại di giới (lời răn) và di kệ (thơ vĩnh biệt khi nhập diệt).
1485 (4 năm sau khi Ikkyuu mất):
Người tên Đại Minh Kim Thực viết lời tựa cho Kyôunshuu (Cuồng Vân Tập)
1491 (10 năm sau khi Ikkyuu mất):
Daitokuji cho dựng Shinju u.an (Trân Châu Am). Ikkyuu là khai tổ của am.
1494 (13 năm sau khi Ikkyuu mất):
Tôbôjô Kazunaga (Đông Phường Thành Hòa Trường) ghi chép việc Ikkyuu là dòng dõi đế vương.
Hai cái tên đáng cho chúng ta ghi nhớ ở đây.
Một là Motsurin Shôtô (Một Luân Thiệu Đẳng, xin gọi tắt là Shôtô), tác giả Nenpu. Ông là đệ tử thân cận của Ikkyuu, cũng là một nghệ sĩ tạo hình với biệt hiệu là Bokusai (Mặc Trai), từng tạc mộc tượng và vẽ chân dung cho thầy mình. Trong Nenpu, ông viết về Ikkyuu một cách quá chân phương cho nên được xem là không thành thực với người đời sau.
Hai là nhân vật Tôjôbô Kazunaga, dòng dõi công khanh tên thật là Sugawara Kazunaga (Quản Nguyên Hòa Trường, xin gọi tắt là Kazunaga). Ông làm quan Thiếu Nạp Ngôn tước tùng tứ phẩm, Đại Nội Ký văn học bác sĩ. Sau ông theo học Hòa thượng Jôtei (Thiệu Trinh), nhận được ấn khả của thầy mình và được ban pháp danh là Sôhô (Tông Phượng). Ông đã viết Tôbôjô Kazunagakyô ki (Đông phường thành Hỏa Trường khanh ký, 1494). Trong tập bút ký đó, ông có đề cập nhiều lần đến Ikkyuu. Cái nhìn của Kazunaga về Ikkyuu ít lý tưởng hoá hơn Shôtô. Chẳng những thế, ông còn vén lên một số bí mật về Ikkyuu phù hợp với thông tin đến từ Kyôunshuu.
Ikkyuu dưới nét họa của Motsurin Shôtô tức Bokusai
III) Đọc Cuồng Vân Tập:
1) Cuồng Vân Tập là tác phẩm như thế nào?
Về tác phẩm, Nhất Hưu đã để lại:
1) Cuồng Vân Tập (Kyôunshuu, 1 quyển).
2) Tự Giới Tập (Jikaishuu, 1 quyển). Truyện ký. Nội dung bài bác hành vi của sư huynh Yôsô Sôi. Văn thể pha lẫn Hán văn với Hòa văn. Có lẽ thành hình vào khoảng năm 1455, lúc Ikkyuu 62 tuổi.
3) Hài Cốt (Gaikotsu). Pháp ngữ có kèm theo tranh vẽ, dĩ nhiên nói về…hài cốt. Có lẽ đã viết vào khoảng năm 1457. Rất được phổ biến.
4) Phật Quỷ Quân (Hotoke Kikun, 1 quyển). Pháp ngữ có kèm theo tranh vẽ. Được khắc ấn vào khoảng năm Genroku 10 (1697) và năm Bunsei 6 (1823) dưới đời Edo.
5) Truyện thật về A Di Đà (Amida Hadaka Monogatari, 1 quyển).
6) Truyện hai nữ tỳ khưu (Futari Bikuni, 1 quyển).
7) Gương trong (Mizukagami, menashigusa, 1 quyển).
8) Pháp ngữ viết bằng chữ kana (Kana hôgo, 1 quyển).
9) Giải nghĩa Kinh Bát Nhã (Ma Kha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giải, 1 quyển). Sách có kèm theo tranh vẽ để giải thích.
Kyôunshuu là quyển sách có tính cách văn học duy nhất mà Ikkyuu để lại ngoài những cuốn sách ngắn viết theo lối văn dễ hiểu có mục đích khuyến giáo. Bản tối cổ gọi là bản Okumura vì gia đình Okumura ở thành phố Nishinomiya còn giữ lại được. Người chấp bút chép lại có lẽ là Soshin Shôetsu (Tổ Tâm Thiệu Việt, 1444-1519), từng là thị giả (ngưòi hầu cận) của Ikkyuu và chắc cũng là nhà biên tập. Dĩ nhiên, trải qua các đời từ Muromachi đến Edo, việc Kyôunshuu có nhiều dị bản là điều đương nhiên. Phải có đến 10 dị bản nhưng giới nghiên cứu có khuynh hướng tin cậy bản Okumura hơn cả. Bản này đã được những người chủ của nó chụp ảnh vào năm Shôwa 41 (1966). Sau đó nhà xuất bản Iwanami đã in ra cho đại chúng đọc trong bộ Tư tưởng thiền tông thời trung cổ (Chuusei zenka no shisô) năm Shôwa 47 (1972).
Qua các công trình khảo sát các dị bản còn giữ lại, người ta đã thu thập được tất cả 1.060 bài thơ. Tuy nhiên, vì số lượng đồ sộ của nó, các học giả chỉ giới hạn công trình nghiên cứu của họ trong phạm vi một số bài tiêu biểu. Ba trăm bài đã được học giả Yanagida Seizan tuyển chọn và chú thích trong Nihon Zengoroku 12: Ikkyuu (Nhật Bản Thiền Ngữ Lục tập 12: Nhất Hưu) do nhà xuất bản Kôdansha in vào năm 1978. Nhà nghiên cứu người Gia Nã Đại, bà Sonja Arntzen, học trò của Katô Shuuichi ở Đại học British Columbia (Vancouver) đã dịch sang tiếng Anh 144 bài vào năm 1986. Theo thông tin của Katô Shuuichi trong lời tựa viết cho cuốn sách của học trò mình, một bản dịch thơ Ikkyuu qua tiếng Đức (nhan đề Ikkyuu: In Garten der schonen Shin) của Eva Thom đã được ông góp ý. Ông còn từng làm việc chung với René de Berval để ra mắt một bản dịch Ikkyuu sang tiếng Pháp. Dĩ nhiên kể từ khi Katô Shuuchi nhắc tới điều đó (1986) đến nay, bao nhiêu nước chảy qua cầ, nhưng nói chung, thơ Ikkyuu vẫn chưa được phổ biến rộng rãi ở nước ngoài.
Trở lại với Yanagida Seizan. Ông đã phân chia quyển nội dung tác phẩm thành 4 chương: chương Thuần tạng chủ (gồm những bài thơ đánh dấu cuộc sinh hoạt của Ikkyuu), chương Hạt Lư (thơ tán thán các vị cao đức trong thiền lâm), chương Mộng Khuê (thơ sắc tình) và chương Cuồng Vân (thơ hiện thực). Còn Sonja Arntzen thì chia thơ Ikkyuu thành 4 loại: thơ chủ đề thuần túy triết học, thơ trữ tình liên quan đến cuộc đời tình ái của ông, thơ bộc lộ những cảm hứng cá nhân và thơ bài báng, phúng thích.
2) Hư cấu và hiện thực trong Kyôunshuu:
Nếu Kyôunshuu có pha trộn hư cấu với hiện thực và pha trộn nhiều nữa thì cũng không có gì đáng kinh ngạc. Tác phẩm ấy đã do một người (Ikkyuu) tự xưng là Kyôununshi (Cuồng vân tử) làm ra. Cuồng có nghĩa là điên loạn. Đã là điên loạn rồi thì lúc say lúc tỉnh, lúc thực lúc hư, lúc hành thiện lúc hành ác, ai mà phân biệt được bản chất. Còn như Vân cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa khác nhau:
1) Vân cẩu: những chòm mây không định hình. Lúc là giải mây trắng mờ nhạt hiền hòa bên triền đồi, lúc là mây đen cuồng nộ khi mưa bão đến (bạch y/ thương cẩu).
2) Vân thủy: như bước đường tự do như mây nước của nhà tu hành đi tìm lẽ đạo.
3) Vân vũ: như cảnh tượng diễm tình mây mưa trai gái (Vu Sơn / Cao Đường).
Mặt khác, cách hành thiền của các bậc sư phó đời xưa nói chung cũng rất kỳ quặc, cực đoan và đầy bạo lực. rủa, quát tháo, đánh đập, chém chặt, xỏ xiên, ăn nói ngược ngạo vv… Cái hèo của Động Sơn, tiếng quát của Lâm Tế! Với người đã đành, còn khi ở một mình cũng vậy: Trường Chửi khiếu nhất thanh hàn thái hư cơ mà! Bởi vì không làm như thế thì không đi dến tận cùng ranh giới của hành động và không diễn tả được cực ý.
Để có thể hiểu Kyôunshuu, chúng tôi tạm thời làm công việc thu vén sắp xếp theo một số chủ đề nói đến trong thơ cho độc giả dễ tiếp cận thơ và người Ikkyuu dù biết rằng còn quá sơ sài, chưa thỏa đáng.
3) Thơ tôn quân và huyễn tưởng về nguồn gốc đế vương của người cha:
Theo Nenpu thì cha của Ikkyuu là dòng dõi nhà võ (vũ môn), mẹ là con gái đại tộc Fujiwara đi theo Nam triều. Bà này được nạp vào hậu cung Thiên hoàng Go Komatsu (1377—1433, trị vì 1382-1412, thứ 100). Ông là vị thiên hoàng lên ngôi thời Nam Bắc Triều thống nhất. Công nương họ Fujiwara này (có lẽ là bà Iyo no Tsubone thuộc gia đình Hino) được nhà vua sủng ái cho nên chuốc lấy sự ghen tức của hoàng hậu. Có lời dèm pha là lúc nào cũng thủ đoản đao trong tay để mưu sát thiên hoàng nên sau đó bà đã bị đuổi ra khỏi cung trong lúc đang có mang ông. Ikkyuu đưọc sinh ra trong một ngôi nhà thường dân. Tương truyền từ lúc bé, ông đã có phong thái rồng phượng.
Tuy né tránh nói thẳng nhưng Nenpu cũng gợi ý Ikkyuu là dòng dõi hoàng gia. Đến khi Kazunaga viết bút ký thì mọi sự đã được trình bày một cách rõ ràng hơn. Đương thời, người ta đã tin vào thuyết ấy rồi. Ngày nay thì ngôi mộ của Ikkyuu trong khuôn viên Shuu.on.an (Thù Ân Am) vẫn được ty giữ lăng thuộc Cung Nội Sảnh (Kunaichô) của hoàng gia Nhật Bản chăm sóc và có ghi trên một tấm biển lớn rõ ràng là “Hậu Tiểu Tùng thiên hoàng hoàng tử Tông Thuần vương chi mộ”.
Việc Ikkyuu lúc mới 6 tuổi đã đi vào chùa tu có thể giải thích khả năng ông bị các Shôgun họ Ashikaga mưu ám sát để diệt cho tuyệt mầm mống của Nam triều (qua người mẹ). Bởi vì như ta dã biết, cánh Nam triều (đóng ở Yoshino) là những thiên hoàng có chí độc lập tự cường trong khi các thiên hoàng Bắc triều (Muromachi) nằm dưới sự bảo hộ của chính quyền quân nhân.
Tuy chuyện Ikkyuu là con tư sinh của Thiên hoàng Go Komatsu hãy còn là đề tài tranh luận nhưng điều ta muốn tìm hiểu ở đây là bản thân Ikkyuu có tin vào điều đó hay không và thái độ của ông như thế nào.
Trên thực tế, Ikkyuu không bao giờ xác nhận rõ ràng nguồn gốc. Có thuyết cho rằng ông đã gặp mặt Thiên hoàng Go Komatsu 2 lần, có trao đổi thư tín với Thiên hoàng Go Hanazono (Hậu Hoa Viên,1419-1470, trị vì 1428-1464, thứ 102) và được sự ủng hộ của Thiên hoàng Go Tsuchimikado (Hậu Thổ Ngự Môn, 1442-1500, trị vì 1464-1500, thứ 103) để trở thành trụ trì của Daitokuji lúc đã về già. Cũng có khả năng ông đã được gọi về làm vua sau khi Thiên hoàng Shôkô (Xứng Quang, 1401-1428, trị vì 1412-28, thứ 101) mất sớm nhưng ông đã chối từ (?).
Dù vậy, qua thi ca, ta thấy Ikkyuu rõ ràng là một người tôn quân. Ông hết sức ưu ái và tỏ ra lo lắng cho hoàng tộc. Có thể ông đứng ở lập trường một tăng nhân xem “vương pháp tức Phật pháp” nhưng cũng có thể ông đã cảm thấy có mối liên hệ huyết thống với hoàng gia, qua “người cha mà hai bên đều không thừa nhận” là Go Komatsu.
Ông đã bày tỏ tình cảm của mình đối với hoàng gia giữa khi xảy ra một cuộc nội loạn:
Loạn lý nhị thủ
Quốc nguy gia tất hữu dư ương,
Phật giới thoái thân ma giới trường.
Lâm thời sát hoạt nạp tăng lệnh,
Quân khán trung thần tùng bá sương.
Độc tọa tần mang đãng hối tâm,
Thùy nhân trung nghĩa thử thì thâm.
Hiểu thiên nhất thụy chẩm đầu hận,
Triêu nhật tam can mộng lý ngâm.
Hai bài thơ làm giữa thời loạn
Nước nguy nhà khó tránh tai ương,
Vừa rời cõi Phật, lụy ma vương.
Đây lúc nhà tu nên góp sức,
Kìa những trung thần dãi gió sương.
Năm tàn canh cánh mãi trong tâm,
Ai người nghĩa khí lòng vì dân.
Một đêm chợp mắt buồn trên gối,
Sáng rõ rồi nhưng vẫn mộng thầm.
Qua đó, ta thấy ông xem biến cố nói trên như bằng chứng của sự suy thoái của Phật pháp (mà cũng là vương pháp) trước những sức mạnh yêu ma (tranh chấp trong gia đình Shôgun Ahikaga Yoshimasa và giữa những thế lực vũ sĩ đông tây). Lúc ấy, chiến tranh xảy ra khắp nơi, loạn từ bên trên khiến gia đình thường dân mang vạ. Ai là gian tặc, ai là trung thần, không phân biệt được, làm cho người đi tu cũng phải nổi giận. Ikkyuu tuy nung nấu hoài bão cứu dân giúp nước nhưng chỉ biết độc tọa nghĩa là mang mối hận lòng trong sự cô đơn. Ở một chỗ khác, ông có nhắc nhở rằng tài bảo, mễ tiền, những thứ lợi lộc, là đầu mối của triều địch. Lòng mình thì những rối bời: Bàng hữu trung thần tâm loạn ti (bài Kính thượng thiên tử giai hạ). Chữ “Triêu nhật tam can” của câu cuối cùng lấy ý thơ vịnh Thập Ngưu Đồ bức thứ bảy nhan đề Đáo gia vong ngưu (Về nhà quên trâu: Hồng nhật tam can do tác mộng, Tiên thằng không đốn thảo đường gian (Trời mọc ba sào còn ngủ nướng, Roi giây vứt mặc giữa nhà ngang), thơ Khuếch Am Sư Viễn.
Ông cũng ký thác tình cảm tôn quân bảo hoàng trong những bài thơ soạn lúc làm pháp yếu để chúc lành cho các thiên hoàng (tuy nhiên nhân đó cũng phúng thích sư sải chùa Tướng Quốc không thể hiện được tinh thần của khai tổ Mộng Song Sơ Thạch ngày xưa):
Thánh chúc
Hải nội thái bình cánh hiện tiền,
Thanh phong minh nguyệt bích vân thiên.
Vạn Niên thất bách cao tăng lệnh,
Khán khán thiên long chính giác truyền.
Chúc phúc Thiên hoàng
Đất nước thanh bình hiện rõ sao,
Gió lành trăng sáng, biếc tầng cao.
Bảy trăm đại đức truyền chư pháp,
Nào thấy thiên long chính giác đâu!
“Vạn niên thất bách” là chữ dùng trong lúc thượng đường của Hoàng Long Huệ Nam để nói về cảnh tượng Hoàng Mai Sơn có bảy trăm cao tăng mà kẻ truyền được chính pháp là Lư hành giả (sau là Lục tổ Huệ Năng), một người phụ việc không chữ nghĩa. “Khán khán” ý nói “Kìa, xem đi nào…” với ngữ ý phủ định. Chính Giác còn là thụy hiệu của quốc sư Mộng Song Sơ Thạch. Vạn niên ám chỉ Vạn Niên Sơn Tướng Quốc Tự, nơi Shunnoku Shôha (Xuân Ốc Thiệu Ba) và chư đệ tử, những người nối nghiệp Mộng Song, tu hành.
Giữa thời chiến loạn và khi hòa bình lập lại, hình ảnh thánh vương còn được gợi ra một cách mạnh mẽ trong hai bài thơ sau đây:
Loạn trung Đại Thường Hội
Đương kim thánh đại bách vương tung,
Ngọc thể kim cương bình ổn dung.
Phong xuy bất động ngũ vân nguyệt,
Tuyết áp nan thôi vạn tuế tùng.
Lễ Nếm Lúa Mới giữa thời loạn
Theo dấu trăm đời đức thánh hoàng
Kim cương ngọc thể dáng bình an
Trăng cao nào sợ gió vùi dập
Tùng vững muôn năm dẫu tuyết tràn.
Văn Minh loạn hậu
Trường Bình tứ thập vạn quân vong,
Kim nhật Phù Tang ngưỡng thánh vương.
Chẩm đầu nhàn mộng Bắc Mang vũ
Dạ dạ xuân khuê lệ vạn hàng.
Viết sau cuộc loạn năn Bunmei
Chiến chinh bốn chục vạn quân tàn,
Giờ cả non sông hưởng thánh nhan.
Đêm đêm gối chiếc phòng loan vẫn,
Nhớ kẻ không về lệ chứa chan.
Ông vẽ nên hình ảnh của một vị thánh vương theo các vua trong thần thoại (Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn) vững chắc như kim cương để vượt qua cảnh loạn lạc. Thế nhưng đó chỉ là một hình ảnh thường sáo mà ông đã rơi vào. Đại Thường Hội là một cuộc lễ mừng mùa màng nên trong một xã hội nông nghiệp, nó được xem như cuộc lễ lớn nhất hằng năm. Còn loạn năm Văn Minh ám chỉ cuộc đại loạn 10 năm (1467-1477) kéo từ năm Ônin (Ứng Nhân) sang đến năm Bunmei (Văn Minh) dưới đời Thiên hoàng Go Tsuchimikado. Trường Bình (địa danh ở Cao Bình, Sơn Tây) chỉ việc tướng nhà Tần là Bạch Khởi từng ra lệnh tàn sát và chôn sống 45 vạn quân Triệu đã đầu hàng vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hình ảnh này tượng trưng cho sự thiệt hại nhân mạng khổng lồ do chiến tranh gây ra. Còn Bắc Mang Sơn là nơi có mộ phần ở ngoài thành Lạc Dương kể từ đời Hậu Hán Hậu Ngụy trở đi, ở đây ý nói số người chết đông đảo.
Thiên hoàng Go Komatsu (1377-1433)
Bài thơ dưới đây than thở cho sự suy thoái của vương quyền và vai trò của triều đình để kết thúc bằng nguyện vọng mãnh liệt là dùng Phật giáo làm phương tiện “trấn hộ quốc gia” như Mật tông của thiền sư Kuukai (Không Hải) thuở nào, diệt hết nghịch tặc, chuyển nguy thành an:
Thán nhật kỳ lạc địa
Cẩm kỳ nhật chiếu động long xà,
Thánh vận xuân trường cứu quốc gia.
Hoá điện thương sát ngũ nghịch bối,
Thệ vị triều đình tác ác ma.
Than lá cờ nhà vua rơi xuống đất
Cờ gấm hào quang đuổi rắn rồng,
Cứu nước hưng nhà ý những mong.
Nguyện gây sấm chớp trừ gian tặc,
Dù hóa ma vương cũng toại lòng.
Vẫn là những từ hoa đầy chất lãng mạn mà trong đó, hình ảnh thánh vương lồng trong hình ảnh người cha thấy trong hai bài làm ra khi viếng mộ Thiên hoàng Go Komatsu:
Tuyền Dũng Tự Vân Long Viện Hậu Tiểu Tùng Viện miếu tiền cúc
Cổn long cẩm tụ bích vân thiên,
Duệ tín tông môn liệt tổ tiên.
Sinh thiết chú thành hoàng cúc ý,
Thu hương vị lão ngọc giai tiền.
Hoa cúc trước mộ Thái thượng hoàng Go Komatsu ở viện Vân Long chùa Tuyền Dũng
Áo gấm rồng bay lượn đỉnh trời,
Lòng tin Phật pháp vững bao đời.
Thép đã đúc vàng hồn cúc ấy,
Hương thu bên bệ ngát không thôi.
Thái thượng hoàng Go Komatsu – người cha không nhìn nhận của Ikkyuu – mất năm 1433, được chôn ở Tuyền Dũng Tự ở Higashiyama (Kyôto). Năm năm sau, lúc 40 tuổi, đi ngang qua mộ phần của nhà vua, chạnh niềm hoài cảm. Hoa văn cúc 16 cánh là biểu tượng của hoàng gia.
Tuyền Dũng tự Vân Long Viện Hậu Tiểu Tùng Viện cổ miếu xuân du
Tam hoàng nhật nguyệt nhất càn khôn,
Ngũ thập dư niên bách đế tôn.
Vạn lý Vân Long môn hạ khách,
Từ tâm thâm xứ tự quân ân.
Chơi xuân ở miếu cũ Thái thượng hoàng Komatsu viện Vân Long chùa Tuyền Dũng
Truyền tự trăm đời mãi đến đây,
Năm chục năm dư nối nghiệp dài.
Dưới mái Vân Long, rồng ở trọ[3],
Nhớ xưa từ ái đến thân này.
Lần ấy, nhân làm một chuyến chơi xuân, Ikkyuu trở lại thăm mộ Thái thượng hoàng Go Komatsu, ca tụng nghiệp đế vương dài lâu từ thời thái cổ (tam hoàng nhật nguyệt) và vai trò đặc biệt trong lịch sử Nhật Bản của ông. Đặc điểm của Thiên hoàng Go Komatsu là trị vì, giữ viện chính hơn 50 năm trời (ngũ thập dư niên) và là vị thiên hoàng đời thứ 100 (bách thế tôn). Mộ của ông chôn ở Sennyuuji (Tuyền Dũng Tự). Ikkyuu đã lặn lội từ xa để tới viếng miếu thờ và dù trời đã về chiều, vẫn không muốn rời: Đình tiền tri hữu vương tôn thảo, Do đáo tà dương bất đắc qui . Câu 4, Ikkyuu như mượn lời một cung nhân (có thể là mẹ mình) để phát biểu tình cảm (Từ tâm thâm xứ tự quân ân).
4) Thơ vịnh mỹ nhân thời xưa và tình cảm đối với người mẹ bạc mệnh:
Bên cạnh người cha như thế, Ikkyuu còn có một người mẹ bạc phước mà ông đã phải chia tay từ bé.Tuy vậy, hình như bà vẫn theo dõi cuộc sống của ông. Bằng cớ là khi không hiểu vì cớ gì vào năm 21 tuổi Ikkyuu đâm ra tuyệt vọng và tìm cách lao xuống cầu tự sát thì một người đầy tớ trai bà phái đi theo canh chừng đã cản lại được.
Trong thi tập của Ikkyuu, ông viết nhiều bài thơ vịnh mỹ nhân. Đó cũng là chuyện thường làm của văn nhân đời xưa. Tuy nhiên, những nhân vật cổ điển Ikkyuu nhắc tới thường là những người đẹp bị ruồng rẫy hay bỏ rơi, nghĩa là chịu sự khắc nghiệt của số phận. Người ta tự hỏi những Trần A Kiều, Ban Tiệp Dư, Dương Quí Phi, Vương Chiêu Quân, Nga Hoàng và Nữ Anh… có là hình ảnh, dù một phần nào, của người mẹ bị đuổi ra khỏi hoàng cung đó hay không. Xin đọc những vần thơ “cung oán” sau đây (bà Sonja Arntzen đã khéo léo dịch sang tiếng Anh thành “boudoir lament”):
Trường Môn xuân thảo
Thu hoang Trường Tín mỹ nhân ngâm,
Kinh lộ vô môi thượng uyển âm.
Vinh nhục bi hoan mục tiền sự,
Quân ân thiển xứ thảo phương thâm.
Cỏ xuân cung Trường Môn
Quạnh hiu Trường Tín mối tình câm,
Vườn chẳng ai qua, rủ bóng thầm.
Vinh nhục khóc cười bày trước mắt,
Ơn vua ghẻ lạnh, cỏ xanh thâm.
Bài thơ trên được biết làm ra vào năm Ikkyuu 13 tuổi. Thật là một tài năng chín sớm. Đề tài nói về truyện nàng A Kiều tức Trần Hoàng Hậu bị Hán Vũ Đế bỏ rơi chịu lạnh lùng trong cung Trường Môn. Câu khởi nhắc đến cung Trường Tín, nơi Ban Tiệp Dư đến hầu hạ Thái Hậu sau khi tình yêu nồng nàn của Hán Thành Đế đã chuyển qua cho chị em Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức. Câu thừa “Kinh lộ vô môi” lấy tứ thơ Đỗ Mục (có thuyết cho là Hứa Hồn) trong “Tống ẩn giả nhất tuyệt” (Thơ tuyệt cú tiễn đưa người đi ở ẩn) nhưng tác giả đã chuyển cảnh ẩn sĩ không người tiến cử (vô môi) nên vua không dùng sang cảnh nàng cung phi bị vua chẳng đoái hoài.
Mã Ngôi (tam thủ kỳ nhất)
Thiên tuế Mã Ngôi tàn nguyệt hồn,
Hoàng kim dụng tận thụ quân ân.
Hải đường thụy ổn xuân phong diện,
Do thị thi nhân thiêm lệ ngân.
Gò Mã Ngôi
Hồn nương trăng xế gò nghìn năm,
Ơn vua phí của biết bao lăm.
Hải đường say giấc trong hương gió,
Để khách thơ thêm giọt lệ xuân.
Dĩ nhiên đây là thơ nói đến cảnh người đẹp Dương Thái Chân bị quân đội gây áp lực khiến Đường Huyền Tông quay mặt làm ngơ cho nàng bị treo cổ ở nhà trạm Mã Ngôi trên đường lánh giặc vào đất Thục.
Vương Chiêu Quân
Quân vương tại chẩm mộng hồn tàn,
Xuất tái càn khôn phong sắc hàn.
Duy hữu tỳ bà thân bạn thiếp,
Kim tiêu nhất khúc hướng thùy đàn.
Quốc gia an nguy thiếp nhất thân,
Vũ thanh phong sắc lệ ngân tân.
Quân ân thiên tuế thâm ư thảo,
Hồ lỗ hòa thân thanh nhãn xuân.
Nàng Vương Tường
Mộng tàn trên gối nhớ vua hoài,
Ngoài ải đất trời gió lạnh dài.
Chỉ có tỳ bà làm bạn thiếp,
Đêm nay dạo khúc, hỏi cho ai?
Một thân chống đỡ nước non nhà,
Gió táp mưa sa mắt lệ nhòa.
Cỏ dày muôn thuở ơn sâu ấy,
Khiến gượng hòa thân đất rợ xa.
Chiêu Quân Vương Tường làm vật hy sinh để nhà Hán có thể củng cố ngoại giao với các bộ tộc phương bắc cũng là một chủ đề về sự bội bạc của người đàn ông và sự rẻ rúng của thân phận phụ nữ.
Hoàng Lăng miếu (tứ thủ, kỳ tam kỳ tứ)
Cổ miếu Hoàng Lăng trúc nhất tùng,
Giai nhân hà xứ động thanh phong.
Trùng Hoa chân thị phong lưu chủ,
Thiên Bảo Minh Hoàng đế nghiệp không.
Hà xứ ngư thê chu tự khinh,
Thiến quần nhị nữ xướng ca thanh.
Dâm phong Thiên Bảo cổ phong Thuấn,
Triều thủy, Ly Sơn vô hạn tình.
Miếu Hoàng Lăng (bài 3 và 4)
Miếu cũ Hoàng Lăng trúc một lùm,
Nghe như trong gió mỹ nhân rung,
Thuấn kia mới thật vua tài đức,
Rõ khổ Minh Hoàng đại nghiệp không.
Vợ chài lướt sóng hỏi về đâu,
Váy xanh hai ả hát đôi câu,
Khúc xưa đứng đắn, mới, bôn phóng.
Tương thủy, Ly Sơn tình xiết bao.
Hai bà cung phi vua Thuấn tuy không bị vua ruồng bỏ nhưng cũng lẽo đẽo theo chồng khi ông xuống miền Nam dẹp loạn Xí Vưu rồi chết ở đất Thương Ngô. Cuối cùng hai bà đã tự trầm trên dòng sông Tương và đó cũng là một hình ảnh đau lòng khác của thân phận phụ nữ. Miếu Hoàng Lăng là nơi thờ hai bà. Trúc vùng sông Tương được biết có chấm chấm như ngấn nước mắt.
Mượn đề tài Đỗ Mục để nói về Dương Quí Phi:
Tán Đỗ Mục (đệ ngũ thủ)
Thiên Bảo triều đình vô thị thần,
Hàn nho đáo xứ ký ngâm thân.
Vong quốc Dương phi kim ngọc cảnh,
Hải đường thụy thục Mã Ngôi xuân.
Vịnh Đỗ Mục (bài thứ năm)
Cả triều Thiên Bảo có ai chầu?
Qua đó hàn nho cám nỗi đau.
Xuân Mã Ngôi Pha hờn mất nước,
Hải đường giấc quạnh đến thiên thâu.
Tuy xót thương Dương Quí Phi nhưng cũng ngầm chê đạo đức thời Thiên Bảo. Khác với Nga Hoàng Nữ Anh trung trinh tiết liệt, Thái Chân dù sao vẫn là một “ác nữ” đã làm sụp đổ đế nghiệp của Huyền Tông. Nàng nào có khác chi Bao Tự (bài U Vương) hay Trương Quý Phi, Khổng Quí Tân (bài Mỹ nhân khuynh thành) đã nhảy xuống giếng tự tầm với Trần Hậu Chủ… là những nhân vật lịch sử khác. Đặc biệt, qua đó, Ikkyuu đã chĩa mũi dùi gián tiếp công kích phu nhân Hino Tomita, vợ Shôgun Yoshimasa, người đàn bà đam mê quyền lực và của cải, đầu mối cho cuộc đại loạn Ônin.
Ngoài ra, về việc người mẹ đáng thương của ông, nhà nghiên cứu Kino Kazuyoshi còn kể lại rằng năm Ôei 25 (1418) trong thời gian ông theo học Kasô Sôdon, một hôm có nhà sư mù đàn biwa đến Hưng Thiền Am chơi và diễn tấu trước mặt Kasô cũng như chư đệ tử biến khúc từ Truyện Heike. Đến đoạn Nàng Giô xuất gia (Giô shukke) rất bi ai, bỗng dưng Shuuken (Ikkyuu) lúc đó khoảng 25 tuổi, ôm mặt khóc ròng. Ông phải chạy ra ngoài bãi lau để tiếp tục khóc một mình. Ai đọc Truyện Heike đều biết nàng Giô là một người con hát, xinh đẹp tài giỏi nhưng bị quyền thần Taira no Kiyomori thất sủng sau khi chán nàng vì đã nếm được của lạ khác. Chính Hotoke, cô gái đến sau, do Giô thương hại đưa vào, không ngờ trở thành đầu mối của sự bạc phước của nàng. Khi đến lượt Hotoke chịu số phận hẩm hiu, nàng đã tìm đến thảo am nơi Giô tu hành để xin được tha lỗi. Có phải chăng Shuuken đã chạnh lòng nhớ đến người mẹ đã bị đuổi khỏi cung son, tìm nơi sinh nở hòn máu hoàng gia ở khu ngoại thành là Sagano trong nhà dân dã.
Mỹ nhân thất sủng
Cựu thì hảo cảnh chỉ vinh hoa,
Dụng tận hoàng kim lao quốc gia.
Hoa diễm ngọc nhan linh lạc tịch,
Không ngâm ngọc ảnh chiếu hàn nha.
Người đẹp bị bỏ rơi.
Vàng son một thuở đã trôi qua,
Tán tận của tiền, khổ quốc gia.
Sắc úa màu phai, bước lưu lạc
Ngậm ngùi vóc ngọc ánh hàn nha.
5) Thơ đánh dấu những chặng đường khoắc khoải đi tìm lẽ đạo:
Sau khi từ giã mẹ để đi từ chùa này đến chùa khác tìm đường tu học, Ikkyuu đã sáng tác nhiều bài thơ đánh dấu các chặng đường này. Trong đó có những bài như sau:
Tú cú hàn nga (tên đặt tạm)
Tú cú hàn nga ngũ thập niên,
Quý nê nhưng tổ Động Tào thiền.
Thu phong hốt sái tiểu thời lệ,
Dạ vũ thanh đăng bạch phát tiền.
Thơ đẹp thơ buồn
Tuy tìm thi hứng đã bao thu
Nào dám thơ mình sánh tổ đâu.
Gió vàng ráo lệ thời trai trẻ,
Mưa tối đèn xanh tóc trắng màu.
Bài thơ trên Ikkyuu làm ra vào năm 1463, lúc ông 70 tuổi, có thể xem như một hồi ức với biết bao cảm khái về chặng đường nửa thế kỷ tu hành và làm thơ. Thơ có nguồn gốc gần là 2 câu nổi tiếng của Động Xuân Ông tức Biệt Nguyên Viên Chỉ, một thiền gia lớp trước thuộc tông Tào Động (Thu phong bạch phát tam thiên trượng, Dạ vũ thanh đăng nhị thập niên) mà Ikkyuu tôn kính với nguồn gốc xa hơn nữa là thơ Lý Bạch thời Thịnh Đường (Bạch phát tam thiên trượng, Duyên sầu tự cá trường. Bất tri minh kính lý, Hà xứ đáo thu sương).
Xuân y túc hoa
Ngâm hành khách tụ kỷ thời tình,
Khai lạc bách hoa thiên địa thanh.
Chẩm thượng hương phong mỵ da ngộ,
Nhất trường xuân mộng bất phân minh.
Mặc áo mát, đêm xuân xem hoa
Xuân sang giục khách lại lên đường,
Vui hoa phất phới, đất đưa hương.
Trên gối tình ai vương mộng lẻ,
Hư thực không sao nhận tỏ tường.
Ngược lại với bài trước, đây là một bài thơ tương truyền ông làm lúc mới có 15 tuổi, thời là một chú tiểu. Lời tựa viết “Chu Kiến khát thực[4], Giáp Tý thập ngũ tuế”. Chu Kiến là tên ông ngày bé. Hai câu cuối trong bài phỏng theo thơ Hàn Hoành đời Thịnh Đường: Cấp quản trú thôi Bình Lạc tửu, Xuân y dạ túc Đỗ Lăng hoa. Ý nói cuộc sống phong lưu hưởng lạc chỉ biết uống rượu và thưởng hoa. Qua bài thơ này, Ikkyuu ca tụng niềm vui lúc xuân về cũng như cái đẹp của mỹ nhân (chẩm thượng hương phong). Câu cuối giữ nguyên văn thơ thi nhân Trung Đường Trương Đỉnh trong bài Ký Nhân thấy trong Tam Thể Thi: Khốc liên phong nguyệt vị đa tình, Hoàn đáo xuân thì biệt hận tình. Ỷ trụ tầm tư bội trù trướng, Nhất trường xuân mộng bất phân minh. Tuy nhiên, phải nói đây là một bài đạo ca xem mọi cái đẹp xuân thì như là mộng huyễn (hoa khai hoa lạc, mỵ da ngộ, nhất trường xuân mộng). “Hương phong” ý nói hơi thở của mỹ nhân, như ý từng thấy trong Điện tiền khúc cũng của Vương Xương Linh.
Trung thu vô nguyệt
Thị vô nguyệt chỉ hữu danh minh,
Độc tọa nhàn ngâm đối thiết kềnh ,
Thiên hạ thi nhân đoạn trường tịch,
Vũ thanh nhất dạ thập niên tình.
Đêm Trung Thu không trăng
Mang tiếng trung thu chả thấy trăng,
Riêng mình đối bóng ngọn hàn đăng.
Đoạn trường thi sĩ trong thiên hạ,
Gió mưa một tối, chuyện mười năm.
Bài thơ tương truyền làm ra vào năm 17 tuổi. Còn trẻ như thế mà thấy rõ Ikkyuu đã có cái nhìn bi quan về cuộc đời. Đêm trung thu mà không thấy trăng, chỉ có nỗi đoạn trường, ngồi đếm hạt mưa rơi, tưởng đến mười năm nuôi mối hận trong lòng. Tâm tình độc tọa giống như Vương Duy trong Thu dạ độc tọa. Thiết kềnh là đế đèn bằng sắt, vẽ nên khung cảnh vô cùng lạnh lẽo. Thơ Lý Nguyện: Dục ngữ nhân duyên khủng đoạn trường. Hoàng Sơn Cốc lại có câu: “Ngã cư bắc hải quân nam hải, Ký nhạn truyền thư tạ bất năng. Đào lý xuân phong nhất bôi tửu. Giang hồ dạ vũ thập niên đăng (Phục ký Hoàng Cơ) cũng là tâm trạng bên đèn riêng bóng, nhìn mưa rơi nhớ chuyện bạn bè xưa.
Cửu kệ đệ nhị thủ
Tàm ngã danh thanh do vị thao,
Tham thiền học đạo trường trần lao.
Linh Sơn chính pháp tảo địa diệt,
Bất ý Ma vương thập trượng cao
Bài kệ số hai trong chín bài
Thẹn nỗi tên mình ai biết đâu,
Học Thiền lâu lắc, khổ là bao.
Linh Sơn chính pháp vừa vùi đất,
Đã thấy yêu ma chục trượng cao.
Bài thơ nói về sự khó khăn lao khổ của việc tu học. Lúc ấy vào năm 1447, có một tăng sĩ ở Daitokuji tự sát. Việc báo quan và năm bảy tăng chúng trong chùa bị nhà nước bắt giam. Tinh thần Ikkyuu suy sụp.
Văn nha hữu tỉnh
Hào cơ sân khuể thức tình tâm,
Nhị thập niên tiền tại tức câm.
Nha tiếu xuất trần La Hán quả,
Nại hà nhật ánh ngọc nhan ngâm.
Nghe quạ kêu, tỉnh ngộ
Tình yêu đánh thức hận lòng xưa,
Hai chục năm trôi, giờ chẳng ngờ.
Nghe tiếng quạ cười, phiền não dứt.
Hỏi người mặt ngọc, sáng ra chưa?
Bài này tương truyền được làm ra lúc ông 27 tuổi,khi nghe tiếng quạ kêu mà ngộ đạo. Trước kia, trong Trường Môn xuân tảo (làm vào năm 13 tuổi), ông tỏ ra đồng cảm với tâm sự Ban Tiệp Dư mà Vương Xương Linh (698-757) đã khai triển trong Trường Tín Thu Từ (Phụng trữu bình minh kim điện khai. Thả tương đoàn phiến cộng bồi hồi. Ngọc nhan bất cập Hàn nha sắc, Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai). Trong bài thơ cũ, ông chia sẻ tình cảm ghen tuông của Ban Tiệp Dư khi gọi tình địch là “con quạ lạnh”. Nay thì thay vào Hàn nha là Nha tiếu, trước kia còn so đo ngọc nhan, nay thì nại hà nhật ánh ngọc nhan ngâm, chứng tỏ ông đã khắc phục được tâm trạng sân si trước đó. Yanagida Seizan giải thích “thức tình tâm” là “dục tình sống lại”. La Hán ở đây nói về Địa Tạng Vương, một vị bồ tát trong tiểu thừa đã dẹp hết được phiền não. “Người ngọc” ám chỉ nàng Ban Tiệp Dư, giờ đây như đã tươi tỉnh vì thấy lại ánh mặt trời (nhật ánh, chiêu dương tức tình yêu của nhà vua).
Tự sơn trung qui thị trung
Cuồng Vân thùy thức thuộc cuồng phong,
Triêu tại sơn trung mộ thị trung.
Ngã nhược đương cơ hành bổng yết,
Đức Sơn Lâm Tế diện thông hồng.
Từ trong núi đi vào chợ
Cuồng Vân ai biết tựa cuồng phong,
Sáng trong núi thẳm chiều chợ nhong.
Nếu như tớ quát và vung trượng,
Đức Sơn Lâm Tế thẹn mà trông.
Sơn lộ Nhượng Vũ
Thôn thanh thấu quá quỷ môn quan,
Báo hổ tung đa cổ lộ gian.
Ngâm trượng chung vô phong nguyệt hứng,
Hoàng tuyền cánh tại mục tiền sơn.
Đường núi Yuzuriha
Cửa quỷ im hơi lánh thật xa,
Bao nhiêu hổ báo vết chân qua .
Nương gậy, gió trăng đà cạn hứng,
Suối vàng: núi ấy chứ đâu xa.
Cảnh hổ báo tung hoành giống như những gì Tứ Tổ Đạo Tín đã gặp phải trên đường đi gặp Ngưu Đầu Pháp Dung ngày xưa (chữ dùng trong Tổ Đường Tập). Ngâm trượng là chống gậy (ý buồn vì thời thế suy vi) không còn hứng thú thưởng thức thanh phong minh nguyệt nữa. Bài thơ này làm trong giai đoạn khó khăn và tuyệt vọng của Ikkyuu (năm 1442, ông 49 tuổi). Để tránh loạn Kakitsu (xảy ra nhân vì tướng Akamatsu ám sát Shôgun Yoshinori), ông phải vào ẩn trong núi Yuzuriha (Nhượng Vũ Sơn).
Tuy nhiên, trong cuộc đời đi tìm lẽ đạo, cũng có những giây phút sảng khoái, cao hứng như cuộc gặp gỡ giữa ông và người con hát mù, sau là thị giả Mori:
Trú Cát Dược Sư Đường tinh tự
Ưu du thả hỷ Dược Sư Đường,
Độc khí tiện tiện thị ngã trường.
Quý tàm bất quản tuyết sương mấn,
Ngâm tận nghiêm hàn thu điểm trường
Ức tích Tân viên cư trú thì,
Vương tôn mỹ dự thính tương tư.
Đa niên cựu ước tức vong hậu,
Cánh ái ngọc giai tân nguyệt tư.
Bài tự đề Dược Sư Đường ở Sumiyoshi
Dược Sư thong thả ghé chùa này,
Khí độc còn sôi một bụng đây,
Quản chi tóc ngả màu mây bạc,
Thơ suốt đêm thu giá lạnh đầy.
Nhớ xưa Xóm Củi mình nằm không.
Nghe danh công tử, nàng hằng mong.
Bao năm tưởng đã quên lời ước,
Thềm ngọc trăng non ý lại nồng.
Hai bài thơ trước tiên nói về việc lần đầu nghe Mori đàn tỳ bà và hát ở Dược Sư Đường vào mùa đông năm Bunmei thứ 2 (1470), Ikkyuu cảm động trước nhan sắc của nàng. Sau đó nói về cái duyên giải cấu tương phùng khiến cho hai người gặp lại nhau khi ông về ngụ ở Shôsaian (Tùng Thê Am) vùng Sumiyoshi (Trú Cát). Nhân đó, nàng trở thành thị giả và nguồn cảm hứng cho cuộc đời ông.
Sau đây là một trong những bài thơ giã biệt cuộc đời được truyền lại nhưng thử hỏi một danh tăng như ông thì còn mơ mộng những gì? Đâu phải là được tiếp rước về Tây thiên!
Từ thế thi
Thập niên hoa hạ lý phương minh,
Nhất đoạn phong lưu vô hạn tình.
Tích biệt chẩm đầu nhi nữ tất,
Dạ thâm vân vũ ước tam sinh.
Thơ lúc lìa đời
Mười năm kết ước dưới đài hoa,
Sao vẫn còn chưa thỏa mộng ta.
Tiếc nỗi đùi nàng đầu hết gối,
Mây mưa kiếp tới thỏa chăng là.
Đây là một bài kệ nữa làm ra lúc từ giã cuộc đời, chỉ thấy chép trong Kyôunshuu bản nhà in Minyuusha (Dân Hữu Xã). Phương minh tức là ước hẹn vợ chồng. Đối tượng của lời giao ước này chắc là thị giả Mori, người mà ông tỏ ra rất quyến luyến. “Nhi nữ tất” là đầu gối (đùi) người đàn bà mà ông tựa đầu. Dạ thâm tức đêm sâu, ý nói thế giới bên kia, kiếp mai sau.
6) Thơ vịnh tán chư tôn sư và văn nhân tài tử:
Ikkyuu để lại nhiều thơ vịnh tán.
Phật đản sinh
Tam thế nhất thân dị hiệu đa,
Hà nhân kim nhật định ngao ngoa.
Ta bà lai trú bát thiên độ,
Mã phúc lư thai hựu Thích Ca.
Phật ra đời
Danh hiệu nhiều, tam thế nhất thân.
Ai nay tìm Phật chẳng phân vân.
Ta bà thế giới tám ngàn lượt,
Mượn bụng ngựa lừa xuống cõi trần.
Trước tiên là tán Phật. Bài này ca tụng công đức của Phật Thích Ca. Bảo Phật trở lại thế gian không biết bao nhiêu lần (bát thiên độ) là theo lời chép trong Kinh Phạm Võng. Nhưng theo đó mà cho rằng Phật đã mượn cả hình thù lừa ngựa (mã phúc lư thai) thì có thể bị chê trách là phạm thượng đối với bậc tôn quí. Tuy nhiên đấy là ngôn ngữ nhà Thiền vốn dùng cách ăn nói mạnh bạo để chứng minh “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” mà hình tượng “tai lừa mặt ngựa trở về từ cõi súc sinh” mới chính là hình ảnh đích thực của bậc chân nhân vô vị.
Tán Ngư Lam Quan Âm
Đan kiểm thanh hoàn từ ái thâm,
Tự nghi vân vũ mộng trung tâm.
Thiên nhãn đại bi khán bất kiến,
Ngư thê giang hải nhất sinh ngâm.
Vịnh Quan Âm xách giỏ cá
Tóc đen má đỏ bao từ ái,
Mây mưa trong mộng hãy ngờ lòng.
Nghìn mắt đại bi sao chẳng thấy,
Vợ chài một kiếp hát bên sông.
Quan Âm xách giỏ cá là một trong 33 cách biến hoá của Quan Âm bồ tát (Avalokistesvara), lúc ấy mang hình ảnh vợ một người thường dân. Theo truyện kể của Trung Quốc thì Quan Âm hiện ra như người đàn bà đẹp nên nhiều đàn ông chết mê chết mệt. Có chàng họ Mã thắng cuộc thi đọc kinh, được chọn làm chồng, nhưng anh ta lại chết trong đêm tân hôn. Bài thơ này không thấy có mối liên hệ với câu chuyện đó. Ở đây họa chăng Ikkyuu muốn cho rằng không có biên giới giữa sự thánh thiện (Quan Âm) và phàm tục (vợ người dân chài).
Tán Đạt Ma đại sư bán thân
Đông thổ Tây thiên đồ lộng thần,
Bán thân hình tượng hiện toàn thân.
Thiếu Lâm trung tọa thành hà sự,
Hương Chí vương cung mai liễu xuân.
Vịnh tượng bán thân của Đạt Ma
Đông tây hành đạo khắp đường trần,
Bán thân mà hiện được toàn thân.
Thiếu Lâm ngồi bệt thì sao tỏ,
Hương Chí cung xưa đẹp sắc xuân.
Bài này ca tụng Đạt Ma sư tổ đã từ Tây thiên đến Đông độ rao giảng chính pháp. Ông ngụ ở Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn, Hà Nam) và đã để lại những giai thoại như Cửu niên diện bích, Huệ Khả đoạn tý. “Lộng thần” có nghĩa là “nỗ lực tu hành”. Hương Chí tức Hương Chí Quốc ở Ấn Độ và Đạt Ma được xem như hoàng tử thứ 3 của nước ấy. Thế nhưng theo Ikkyuu thì nỗ lực tu hành chỉ có thể đem đến kết quả tốt đẹp khi bôn ba bên ngoài giảng đạo chứ không phải lúc ngồi bệt một chỗ (như việc cửu niên diện bích) dưới mái chùa. Trong bài này, có lẽ Ikkyuu chỉ mượn chuyện Đạt Ma để trách móc sư sải Thiếu Lâm và xa hơn nữa là tăng nhân Nhật Bản cứ cố thủ ôm cột chùa.
Ikkyuu làm bài tán này khoảng năm 1467, lúc ông 72 tuổi.
Thần tượng số một của Ikkyuu có lẽ là Hòa thượng Phổ Hoá, nhà sư điên cuồng đời Đường, một kỳ tăng, quái tăng! Từ khi Phổ Hóa ra đời hành đạo, Thiền tông không còn giữ khuôn mặt ngày xưa nữa.
Tán Phổ Hóa
Đức Sơn Lâm Tế nại đồng hành,
Nhai thị phong điên quần chúng kinh.
Tọa thoát lập vong đa bại khuyết,
Hòa minh ẩn ẩn bảo linh thanh.
Vịnh Phổ Hoá
Đức Sơn Lâm Tế khó theo cùng,
Giữa chợ dân kinh cái lão khùng.
Sống chết bày trò đều thất bại,
Còn rung chuông báu giữa không trung.
Phổ Hóa hoà thượng
Nghị luận minh đầu hựu ám đầu,
Lão thiền tác lược sử nhân sầu.
Cổ vãng kim lai phong điến hán,
Tông môn niên đại nhất phong lưu.
Nói về hòa thượng Phổ Hoá
Bàn luận lúc mờ lúc rõ ràng,
Lão thiền lắm kế, tớ bàng hoàng.
Xưa nay cứ tưởng anh rồ dại,
Nào biết người phong vận nhất làng.
Tương truyền, Phổ Hoá (Trấn Châu Phổ Hóa, ? – 860) là học trò của người pháp tự Mã Tổ Đạo Nhất tức Bàn Sơn Bảo Tịch (712-814). Phổ Hoá Tông sau được nhà sư đi du học Trung Quốc là Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm, 1207-1298) truyền sang Nhật vào thời Kamakura. Đó là tông phái của những vị tăng du hành, thường đội nón che úp mặt và thổi sáo. Họ được goị là kyomusô (hư vô tăng).
Trong bài đầu, “tọa thoát lập vong” là chữ trong Tọa Thiền Nghi nói về dạng thức thiên hóa của người tu thiền. Theo đó thì lối chết trong khi ngồi kiết già trong tư thế hoa sen là đẹp nhất[5]. “Bại khuyết” là hỗ thẹn. Trước khi Phổ Hoá mất, ông đã có những hành tung kỳ dị như vác quan tài đi rao mình sắp chết, thế rồi vào quan tài nằm đóng kín, khi mở ra lại không thấy xác, rung chuông trên không vv… tựa hồ muốn tung hỏa mù làm kinh động dân chúng ở bốn cửa thành Trấn Châu. Bài thứ hai có nói đến “nghị luận” thì chữ ấy ám chỉ cuộc tranh luận giữa Lâm Tế và hai trưởng lão Hà Dương và Mộc Tháp. “Phong điến hán” là gã điên khùng nhưng dĩ nhiên ở đây phải hiểu với ý nghĩa “con người thoát tục, đáng tôn kính”. Đó là cách Hoàng Bá gọi Lâm Tế, Ikkyuu gọi Phổ Hóa nhưng cũng là tự xưng về mình.
Hư vô tăng thổi sáo shakuhachi
Là học trò đàn cháu của Hư Đường Trí Ngu, Ikkyuu rất hâm mộ ông này. Điều đó được chứng tỏ qua bài thơ sau:
Tán Hư Đường hòa thượng
Dục Vương trú viện thế gian quai,
Phóng hạ pháp y như phá hài.
Lâm Tế chính truyền vô nhất điểm,
Nhất thiên phong nguyệt mãn ngâm hoài.
Vịnh Hoà thượng Hư Đường
Trú chân thiền viện, thế gian xa,
Coi như dép rách tấm cà sa.
Lâm Tế chính truyền không muốn nhắc,
Một trời trăng gió đẹp lòng ta.
Dục Vương Viện tức chùa Quảng Lợi Tự (Triết Giang) nơi Hư Đường Trí Ngu (1185-1269) tu hành. Ông viên tịch năm 85 tuổi. Pháp của ông được Đại Đăng truyền sang Nhật. Lúc ở Dục Vương Viện (từ 1258), vì liên lụy vào một việc gì đó mà có lần bị hạ ngục, đoạt mất tăng y. Ikkyuu nghĩ về chuyện bị đầu ngục đó khi dùng chữ “ngâm hoài” để nói về tâm sự của chính mình bởi vì Ikkyuu cũng có thời gặp khó khăn với chính quyền. Ông có người học trò bị lao ngục, đã muốn nhịn đói mà chết nhưng được chính Thiên hoàng Go Kameyama (Hậu Quy Sơn) viết thư can ngăn mới thôi.
Ông cũng rất kính mến tôn sư Tông Phong Diệu Siêu tức Đại Đăng Quốc Sư:
Đề Đại Đăng quốc sư hành trạng mạt
Khiêu khởi đại đăng huy nhất thiên,
Loan dư cạnh dự pháp đường tiền.
Phong xan thủy túc vô nhân ký,
Đệ ngũ kiều biên nhị thập niên.
Thơ đề cuối bản tiểu sử quốc sư Đại Đăng
Đèn lớn thầy soi một góc trời,
Tranh nhau kiệu liễn ghé chùa chơi.
Bên cầu hai chục năm xưa đó,
Sương gió ai hay dáng tả tơi!
Đại Đăng Quốc Sư Tông Phong Diệu Siêu (1282-1338)
Năm 1426, Zenkô Shunsaku (Thiền Hưng Xuân Tác) chùa Daitokuji có soạn bài viết về hành trạng của Hòa thượng Shuufuu Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu) tức Daitô kokushi (Đại Đăng quốc sư). Tuy được phong quốc sư và triều đình công khanh tranh nhau đến chùa hỏi đạo, Daitô đã từng sống trong đám người khất thực, chịu đói chịu lạnh suốt hai mươi năm[6] ở bên cầu Gojô (Ngũ Điều đại kiều) trong thành phố Kyôto. Đó là bài thơ bày tỏ cảm tưởng mà Ikkyuu đã đề ở cuối bài viết.
Ngoài Phật Thích Ca, Đạt Ma hay những tôn sư Trung Hoa và Nhật Bản trong chốn thiền lâm (Hàn Sơn, Thập Đắc, Tùng Nguyên, Viên Ngộ, Động Sơn, Triệu Châu, Nam Tuyền, Lâm Tế, Nham Đầu, Quy Sơn, Bách Trượng, Bàng cư sĩ, Đại Ứng, Đại Đăng, Hư Đường, Huyền Sa, Linh Sơn, Quan Sơn, Hoa Tẩu…), Ikkyuu cũng ca tụng những văn nhân thi sĩ như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Đào Uyên Minh, Liễu Tôn Nguyên, Đỗ Mục, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Vương An Thạch, Hoàng Đình Kiên…):
Đoan Ngọ
Thiên cổ Khuất Bình tình khởi hưu,
Chúng nhân thử nhật túy du du.
Trung ngôn nghịch nhĩ thùy năng hội,
Chỉ hữu Tương giang giải thuận lưu.
Thơ ngày mồng năm tháng năm
Khuất Nguyên tâm sự những vơi đầy,
Trần thế xưa kia lắm kẻ say.
Lời phải chối tai đời ngoảnh mặt,
Riêng dòng Tương đó hiểu cho ai.
Bài thơ này có ý điếu Khuất Nguyên ( 343 TCN? – 277 TCN), trung thần nước Sở, vì lời dèm pha phải bỏ triều đình ra đi và cuối cùng tự trầm ở sông Mịch La (một nhánh của sông Tương (Hồ Nam). Khuất Nguyên (hay Khuất Bình) là tác giả của Sở Từ và Ly Tao. Ông mất vào ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, gọi là tiết Đoan Ngọ.
Khán Đỗ Phủ Phu châu dĩ hậu thi hữu cảm
Viễn khách ngụ cư hà xứ qui,
Nhất thân tiều tụy yểm sài phi.
Phu châu nhật mộ chung yên địa,
Tranh nại ngâm tì nhiên tận vi.
Cảm hoài khi đọc thơ Đỗ Phủ từ thời ở Phu châu
Cái thân khách trọ biết về đâu,
Sài môn phong kín, dáng tiêu tao.
Phu châu trạm cuối đêm dần xuống,
Thương nỗi chòm râu sớm rụng mau.
Ikkyuu yêu mến phong cách giản dị nhưng sâu sắc của Đỗ Phủ, nhà thơ gần gũi dân chúng. Ông cũng là một thiền khách nhưng đã sống cuộc đời đầy phẫn khái. Phu châu (biên giới Hồ Bắc và Tứ Xuyên, thượng lưu sông Trường Giang, nơi ông đến ngụ vào mùa xuân năm Đại Lịch nguyên niên, 766) tưởng đó là trạm cuối (chung yên địa) đoạn đường đời của mình, nơi ông để lại nhiều sáng tác nhất. Chẳng ngờ ông để vợ con ở đó, đơn thân xuống Hồ Nam nhưng rốt cuộc chỉ luẩn quẩn ở Hành châu và Đàm châu rồi chết trong cô độc, bệnh hoạn trên một chiếc tuyền con bên Hồ Động Đình lúc mới 59 tuổi. Thơ Trương Tịch có 2 câu thơ hay nói về viễn khách (Viễn khách du du bệnh nhiệm thân, Ly gia trì thượng hựu phùng xuân), Yểm sài phi là chữ dùng trong thơ Lão Đỗ (Khương thôn). Tiều tụy thấy trong thiên Ngư phụ (Sở Từ) nói về hình dáng Khuất Nguyên lúc bị phóng trục.
Tán Đỗ Mục (ngũ thủ kỳ nhất)
Tài điệu phong lưu cánh tuyệt luân,
Đỗ thư ký nghiệp ngụy trung chân.
Thi tình nho nhã dâm ư sắc,
Bất thuyết thương sinh thuyết mỹ nhân.
Vịnh Đỗ Mục
Sống kiếp phong lưu, tài tuyệt luân,
Anh chàng Đỗ Mục ngụy mà chân.
Thơ tình nho nhã, yêu nhan sắc,
Không nhắc dân đen, nhắc mỹ nhân..
Đỗ Mục là nhà thơ của nòi tình, sống đời bạc hãnh như từng tự thú trong Bạc Tần Hoài (Lạc phách giang hồ tái tửu hành, Sở yêu triêm tế chưởng trung khinh). Thế nhưng trong lối sống phóng túng đó có hàm chứa một sự chân thực (ngụy trung chân). Ngoài ra, câu cuối bắt nguồn từ một bài tứ tuyệt của Lý Thương Ẩn. Khi Lý vịnh cuộc gặp gỡ giữa nho sinh kỳ tài Giả Nghị và vua nhà Hán có lần trách Hán Văn Đế là bậc quân chủ mà chẳng lo cho dân, chỉ thích hỏi Nghị việc bói toán (Khả liên dạ bán hư tiền tịch, Bất vấn thương sinh vấn quỷ thần). Ở đây, Ikkyuu có ý khen Đỗ Mục hơn là chê vì ông xem đó là bản chất (nghiệp) của Đỗ.
Bạch Lạc Thiên
Lưu đắc từ hoa bách ức xuân,
Thiên ngôn vạn cú dữ cư tân.
Cổ kim độc chứng chi vô lão,
Thế hứa xuất đầu thiên ngoại nhân.
Vịnh Bạch Cư Dị
Hoa gấm văn chương tụ vạn đời,
Viết bao tác phẩm, sống nhiều nơi.
Xưa nay nổi tiếng thông minh sớm
Thi bá thanh danh vượt cõi người.
Bạch Cư Dị là tác giả ảnh hưởng đến văn học Nhật Bản nhiều và lâu dài hơn cả, từ thời Heian (Truyện Genji ) cho đến Muromachi (văn học Gozan). Ông có đến 75 văn tập, bị tá thiên nhiều nơi (Giang châu, Hàng châu, Tô châu, Hà Đông), sau tập thảo đường ở Hưong Sơn và Lô sơn, kinh lịch cũng nhiều. Tương truyền chưa đi học ông đã phân biệt được hai chữ “chi” và “vô” nên được gọi là Chi vô lão. Ông cũng là một thiền khách, tính bình dân, yêu thơ yêu rượu. Ikkyuu vô cùng khâm phục nhân cách, kiến thức và tài năng của ông.
6)Thơ phúng thích, đối kháng với giáo hội và xã hội:
Ikkyuu và sư huynh Yôsô của ông đều thuộc dòng Daitokuji. Yôsô trở thành người cầm đầu , gánh vác việc chùa, trong khi Ikkyuu chỉ là kẻ sống bên lề.
Kyôto là bản sơn của 7 chùa thiền. Trong đó 5 chùa có một thiền phong riêng và gần gũi với chính quyền quân nhân. Ba chùa Kenninji (Kiến Nhân Tự), Tôfukuji (Đông Phúc Tự), và Nanzenji (Nam Thiền Tự) đều đã được xây dựng từ thời Kamakura. Đến thời Mạc phủ Muromachi, nhà nước mới viện trợ cho việc xây dựng 2 chùa mới là Tenryuuji (Thiên Long Tự) và Shôtokuji (Tướng Quốc Tự). Là quan tự, họ cấu kết với chính quyền, bảo đảm tính chính thống của quyền lực, chia chác của cải thu lượm được từ tín đồ và hệ thống kinh doanh của nhà chùa cho những người này để đổi lấy chức vị và sự che chở.
Xin mở ngoặc ở đây để có một đôi dòng nói về liên hệ giữa các chùa Gozan Jissetsu (Ngũ sơn thập sát) với chính quyền Mạc Phủ. Trước tiên, chư tăng ở đó là những người học rộng, đi ra nước ngoài nhiều, có tri thức thâm sâu, có tài ngôn ngữ nên đóng được vai trò cố vấn về chính trị, ngoại giao lẫn ngoại thương cho các Shôgun Ashikaga. Hai nữa là qua mậu dịch với các nước như Trung Quốc, chùa chiền dĩ nhiên được hưởng huê lợi. Họ cũng được ban tặng hay mua lại nhiều đất đai thành thử thâu thập địa tô từ nông dân tá điền. Với số tiền ấy, họ đem cho vay hay gián tiếp đầu tư vào hãng rượu và tiệm cầm đồ. Nhà chùa đã trở thành “ngân hàng”, cho Mạc phủ vay và bù lại, nhận thêm nhiều ân huệ từ những người này. Điều đó giải thích được tại sao khi có cuộc loạn Ônin hay các cuộc Ikki của nông dân thì các chùa Gozan Jissetsu là cái đích nhắm đầu tiên cho những hành động đốt phá và bạo lực.
Riêng hai chùa Daitokuji (Đại Đức Tự) và Myôshinji (Diệu Tâm Tự) thì tu theo lối khác 5 chùa trên.Như đã nói, người khai sơn của Daitokuji là Đại Đăng quốc sư Shuuhô Chôshô. Ông cũng là thầy học của Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền), người khai sơn Myôshinji. Quốc sư Đại Đăng là bậc cao đức, được người lãnh đạo của hai chi nhánh khác nhau là Thiên hoàng Go Daigô (Hậu Đề Hồ) của dòng Daikakuji (Đại Giác Tự) lẫn Thái thượng hoàng Hanazono (Hoa Viên) của dòng đối lập đều kính trọng một cách sâu sắc. Đến khi giấc mộng trung hưng thời Kiến Vũ (Kenmu), tự mình nắm chính quyền, không để Mạc Phủ qua mặt, không thành, Thiên hoàng Go Daigo phải bỏ trốn vào vùng rừng núi Yoshino lập ra Nam Triều thì Đại Đăng vẫn được sự che chở của Thiên Hoàng Hanazono ở Kyôto nên tiếp tục trụ trì ở chùa mình. Daitokuji duy trì được phong cách tu hành đạm bạc và nghiêm ngặt của vị khai tổ. Ikkyuu cho rằng đấy mới là phong cách tu thiền chính thống. Trong khi đó sư huynh Yôsô của ông chỉ muốn làm kinh tế nghĩa là chủ trương phải tăng con số thiện nam tính nữ (khách hàng) và có thu nhập dồi dào để Daitokuji trở thành một đại tự viện. Do đó Ikkyuu mới chỉ trích thậm tệ Yôsô chỉ biết chạy theo danh lợi.
Đường lối của Ikkyuu là người đi tu phải lao động để sống như hình ảnh Bách Trượng Hoài Hải (749-814): Nhật nhật bất tác, nhất nhật bất thực (Một ngày không làm, một ngày không ăn), điều mà thầy của hai người, Kasô Sôdon, thường nhắc đến. Ông nhắc nhỡ sư huynh Yôsô rằng tôn sư Tettsuô Gikô từng cấm các trò chạy theo tiền bạc và danh lợi. Ông còn trách Yôsô đã bãi bỏ hình thức tham thiền (sanzen) hỏi đạo trong chùa. Trong Jikaishuu (Tự Giới Tập), một tập thơ ngắn của mình, Ikkyuu kết án Yôsô và môn phái bằng những bài thơ hầu hết viết theo vần sen (thuyền), sen (tiền) và Zen (Thiền). Thuyền ở đây muốn phúng thích thuyền buôn với nhà Minh bên Trung Quốc.
Chê bai hiện tượng chạy theo danh lợi đó, Ikkyuu mượn bài thơ ca tụng Ma Kha Ca Diếp sau đây để đả kích những con người đi tu một cách giả dối đầy dẫy trong thiên hạ thời đó kể cả sư huynh Yôsô:
Niêm hoa vi tiếu
Thế tôn niêm xuất nhất chi hoa,
Nhất đại thiền tông ý khí xa.
Kim sắc đầu đà độc truyền pháp,
Cận niên tri thức nhược sa hà.
Chìa hoa mĩm cười
Đức Phật chìa ra một cánh hoa,
Pháp môn bán rẻ giúp anh Ca.
Kim sắc đầu đà một mình hưởng
Chứ nay tri thức tựa Hằng sa.
Hoa ở đây nói về tinh túy của Phật giáo một đời tu hành (nhất đại) mới tìm ra mà Thích Ca muốn truyền thụ (Ngô hữu Chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, Thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn). Khốn nỗi, trong tăng chúng chỉ có Ma Kha Ca Diếp lĩnh hội được. Xa có nghĩa xa xỉ, đem đồ tốt đi bán rẻ. Còn gọi Ca Diếp là Kim sắc đầu đà vì có thuyết tiền thân ông là thợ kim hoàn giàu đạo tâm nên khi mới sinh ra đầu đã lấp lánh hào quang. Theo Ikkyuu, pháp môn mà Ca Diếp được độc truyền mới là chính đạo. Còn như gần đây (thời của ông), tri thức thì đầy dẫy như cát trên sông (sa hà) nhưng toàn là đồ giả mạo.
Sự tức bực đối với sư huynh còn được bày tỏ qua việc ông bỏ am Như Ý, rứt áo ra đi.
Như Ý Am trong khuôn viên Daitokuji là nơi có tháp (chôn cất) một vị trụ trì của Daitokuji, Hòa thượng Gongai Sôchuu (Ngôn Ngoại Tông Trung, 1315-1390), trong hệ phổ theo thứ tự Đại Đăng à Triệt Ông à Ngôn Ngoại à Hoa Tẩu à Dưỡng Tẩu và Nhất Hưu. Năm 1440, nhằm ngày kỵ lần thứ 13 của sư phụ Kasô (Hoa Tẩu), Ikkyuu được cử về trông coi Như Ý Am. Chỉ được 10 hôm, tức giận vì hành động của sư huynh Yôsô (Dưỡng Tẩu) mà ông cho trái với đạo phong, Ikkyuu đã để lại mấy bài thơ như sau rồi xách gói ra đi.
Đề Như Ý Am hiệu cát mạt
Tương thường trú vật trí am trung,
Mộc thược khoa ly quải bích đông.
Ngã vô như thử nhàn gia cụ,
Giang hải đa niên thoa lạp phong.
Thơ viết cuối bản chuyển giao tài sản am Như Ý
Thói thường phật cụ giữ bên trong,
Thìa gỗ nậm bầu giắt chái đông.
Nhưng ta nào phải đồ chưng ngắm,
Tơi lá sông hồ[7] kiếp ruỗi rong.
Như ý Am thoái viện ký Dưỡng Tẩu hòa thượng
Trú am thập nhật ý mang mang,
Cước hạ hồng y tuyến thậm trường.
Tha nhật quân lai như vấn ngã,
Ngư hàng tửu tứ hựu dâm phường.
Từ chức trụ trì am Như Ý gửi Hòa thượng Yôsô
Giữ am mười bữa nghĩ loanh quanh
Tu vụng đường tu, chỉ vướng chân.
Mai mốt nếu huynh mà kiếm tớ,
Chẳng hàng rượu cá cũng lầu xanh
Bài thứ nhất ông đề trên tờ báo cáo chuyển giao lại tài sản cho người kế nhiệm trước khi ra đi. Nào là gáo gỗ, nào là bầu nậm lích ca lích kích …Ông cho rằng tu không phải ngồi yên chiếm chỗ như kiểu những phật cụ treo trên tường đông ở trong am, thỏa mãn với giáo lý của chùa mình như vậy mà phải mang áo tơi nón lá ra ngoài chốn giang hải giao lưu với các tông phái khác.
Bài thứ hai bày tỏ cùng một thái độ nhưng ngôn từ gây choáng hơn. Hồng tuyến là sợi chỉ đỏ vướng chân người tu hành, đã từng thấy trong Tùng Nguyên tam chuyển ngữ[8]. Ông bảo sư huynh muốn tìm mình thì hãy đi đến những chỗ cấm kỵ đối với một tăng nhân: ngư hàng, tửu tứ, dâm phường. Thế nhưng ngư hàng đã từng thấy trong Thập Ngưu Đồ với nhà sư Bố Đại thỏng tay vào chợ, dâm phường tửu tứ lại là một trong ba nơi tương truyền Văn Thù Bồ Tát đã sống qua mùa kiết hạ: Kỳ Viên tinh xá, Đồng tử học đường và dâm phường tửu tứ. Nói chung, Ikkyuu cho rằng nhà tu hành khi bài bác chuyện sắc dục là sai lầm vì như thế là cắt đứt với cõi người. Còn như không thỏng tay vào chợ để chung đụng với bàn dân thiên hạ thì dù thành đạo rồi chỉ giữ được sự giác ngộ cho riêng mình. Những kẻ cần được giáo hoá (kỹ nữ, đồ tể, tội phạm, con bạc, con buôn) thì lấy ai để hướng dẫn?
Có khi ông trách cả bản thân đã không tránh nổi sự thỏa hiệp:
Đại Đăng môn đệ
Đại Đăng môn đệ diệt tàn đăng
Nan giải ngâm hoài nhất dạ băng.
Ngũ thập niên lai thoa lạp khách,
Quý tàm kim nhật tử y tăng.
Học trò cửa Đại Đăng quốc sư
Học thầy, để lụn tắt đèn thầy
Đêm lạnh than dài, dạ chẳng khuây.
Tơi nón một đời quen phóng lãng,
Thẹn mình áo tía mặc hôm nay
Không giữ được truyền thống tu hành nghiêm cẩn và đạm bạc của Đại Đăng mà ông là học trò đàn cháu, lúc cuối đời, Ikkyuu đã chấm dứt năm mươi năm sống đời tự do bằng cách vào trong khuôn khổ khi trở thành trụ trì Daitokuji và nhận tử y (áo tía) – vinh dự hạng nhất của một nhà tu – do triều đình ban cho. Bài thơ này nói lên sự phản tỉnh của ông.
Ông phê phán những kẻ sống đọa lạc, xa vời đạo lý, ngoảnh mặc làm ngơ trước sự đau khổ của chúng sinh:
Đại phong hồng thủy
Đại phong hồng thủy vạn nhân ưu,
Ca vũ quản huyền thùy dạ du.
Pháp hữu hưng suy kiếp tăng giảm,.
Nhiệm tha minh nguyệt há Tây lâu.
Lụt to bão lớn
Lụt to bão lớn khổ muôn người,
Tiệc tùng lắm kẻ sáng đêm chơi.
Đạo có hưng vong, kiếp dài ngắn,
Lầu Tây nguyệt lặn, luống buông xuôi.
Hai câu đầu nói lên những cảnh đời trái ngược. Hai câu sau như một tiếng than dài, ngậm ngùi phó mặc cho vận mệnh luân hồi chuyển sinh. Câu thơ cuối cùng Nhiệm tha minh nguyệt há Tây lâu vốn là một câu thơ tình của Lý Ích, thi nhân đời Đường. Thi sĩ đã làm một cuộc hành trình dài để gặp người yêu (Lý Quần Ngọc) nhưng khi đến nơi thì nàng đã chết. Ikkyuu chuyển ý thành một câu thơ hàm ý tôn giáo.
Những đồng đạo trong Thiền môn cũng không ai hiểu mình và ông cảm thấy cô đơn:
Xích bát
Nhất chi xích bát hận đa nhâm,
Xuy nhập hồ già tái thượng ngâm.
Thập tự nhai đầu thùy thị khúc,
Thiếu Lâm môn hạ tuyệt tri âm.
Tiếng sáo Shakuhachi
Sáo dù một ngấn hận khôn cùng,
Vào tiếng khèn hồ, ải lạnh lùng
Giữa chợ đông người, ai biết khúc?
Thiếu Lâm đồng đạo có bằng không!
Bài này vịnh tiếng sáo Nhật Shakuhachi (Xích bát) não nùng bi ai nhưng ông muốn qua đó bày tỏ nỗi lòng. Theo Ikkyuu, không thấy trong đám môn đệ Thiền tông (Thiếu Lâm môn hạ) có lấy một nhà tu thiền đáng kính. Tri âm vốn mượn tích Bá Nha Tử Kỳ trong sách Liệt Tử. Cũng nói lên tâm sự cô độc ấy:
Bệnh trung
Đa bệnh nan vi an lão thân,
Thế gian thế ngoại cộng phong trần.
Lãnh trường tịch mịch thanh cao khách,
Lâm hạ hà tằng kiến nhất nhân.
Trong khi nằm bệnh
Lắm bệnh không yên được tuổi già,
Trong ngoài cuộc thế lắm phong ba.
Để khách thanh cao buồn quạnh quẽ,
Rừng thiền nhìn lại mỗi mình ta.
Già nua và đang nằm bệnh (sắp chết) mà vẫn phê phán sự tục hoá của thiền lâm. Câu cuối “Lâm hạ hà tằng kiến nhất nhân” mượn của tăng Linh Triệt trong bài Đông Lâm Tự thù Vi Đan thứ sử (Tiếp đón Thứ sử Vi Đan ở chùa Đông Lâm). “Tuổi già trăm sự đã an bài, Thân nhàn nệm cỏ áo tơ gai, Gặp nhau chuyện vãn, quan về nghỉ. Trong núi tôi chưa gặp một ai”. (Nguyên văn như sau: Niên lão tâm nhàn ngoại sự vô, Ma y thảo tọa diệc dung thân. Tương phùng đạo tận quan hưu hảo, Lâm hạ hà tằng kiến nhất nhân). Tuy nhiên theo ý thơ Ikkyuu thì Lâm hạ không phải là trong rừng như Linh Triệt viết nhưng là “chốn Thiền Lâm”, nơi mà ông không thấy có ai xứng đáng là tri kỷ.
Quang cảnh trong Daitokuji
7) Thơ triết lý Thiền tông:
Ikkyuu có nhiều bài thơ trực tiếp khai triển đề tài triết lý Thiền tông:
Triệu Châu tam chuyển ngữ: nê Phật bất độ thủy, mộc phật bất độ hỏa, kim Phật bất độ lô.
Thi thành Tiểu Diễm thuật sầu tình,
Nhất chẩm đa niên dạ vũ thanh.
Trường địch mộ lâu thùy thị khúc,
Khúc chung giang thượng sổ phong thanh.
Ba câu nói dẫn đến giác ngộ của Triệu Châu: Phật bùn không qua được sông, Phật gỗ không qua được lửa, Phật sắt không qua được lò.[9]
Tiểu Diễm làm thơ kể nỗi lòng,
Gối đêm mưa lạnh mấy năm ròng.
Khúc sáo bên lầu tên chẳng biết,
Chiều về duy gió thoảng trên sông.
Nguyên lý này được nói đến trong Bích Nham Lục thoại 96. Ý của nó là “Chân Phật tọa ốc lý” nghĩa là Phật thực sự không phải ở ngoài ta nhưng đang ở chính trong nhà tức ngay bản thân ta. Những Phật đất, Phật gỗ Phật sắt chỉ là những vật “vô thường bại hoại”, dễ bị biến chất và dễ bị tiêu diệt.
Hòa thượng Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) là một đại sư trong cửa Thiền trấn ở phiá bắc, giỏi về ngôn từ (khẩu thần bì gia phong), đối đầu được với Tuyết Phong Nghĩa Tồn phương Nam.
Câu đầu nhắc đến nàng Tiểu Diễm. Bài thơ nói về nàng Tiểu Diễm (Tiểu Diễm chi từ trong Đại Huệ vũ khố) đã giúp thiền sư Viên Ngộ giác ngộ. Nguyên văn: Nhất đoạn phong quang họa bất thành. Động phòng thâm xứ thuật sầu tình. Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự. Duy yếu đàn lang nhận đắc thanh. (Hình ảnh người thương vẽ được sao. Tường cao kín cổng dạ riêng sầu. Không can chi cũng kêu con Ngọc. Đánh tiếng chàng hay em ở đâu). Ý nói cô nàng Tiểu Diễm cô đơn vì nhớ người yêu nên không có duyên cớ cũng ơi ơí gọi con hầu Tiểu Ngọc để đánh tiếng với chàng trai, cho anh ta biết mình đang ở đâu[10].
Hai câu 3 và 4 lấy ý và chữ của Triệu Hổ (Triệu Ỷ Lâu) trong Trường An thu tịch (Tàn đăng sổ điểm nhạn hành tái. Trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu). Câu cuối cùng Khúc chung giang thượng sổ phong thanh là một danh cú của Tiền Khởi làm được ở đầm Vân Mộng. Hai ông đều là danh sĩ đời Đường.
Phải chăng tất cả những biểu hiện bên ngoài chỉ là cơn gió thoảng vì không đích thực trừ có nỗi niềm thương nhớ phát xuất tự đáy lòng Tiểu Diễm. Cũng vậy, đưa ra ba ông Phật gỗ, Phật sắt, Phật bùn nhưng chỉ để nói đến ông Phật thứ tư trú ngụ trong bản thân thì Triệu Châu thật khúc mắc, chẳng khác gì nàng Tiểu Diễm. Bài thơ kết nối với điển cố với ngôn từ của danh sĩ thật là đẹp nhưng cũng khá khó hiểu cho tục nhân.
Hương Nghiêm kích trúc
Đàm thủy bắc hề Tương thủy nam,
Trúc Chi khúc lý khầu nam nam
Tôn tiền lạn túy hào gia khách,
Bất thức sầu nhân dạ vũ đàm.
Hương Nghiêm nghe tiếng đá chạm thân trúc
Tương Đàm hai phía bắc và nam,
Trúc Chi khúc ấy hát nghe nhàm.
Biết chăng, hỡi khách nồng men rượu,
Có kẻ đêm mưa dạ xốn xang.
Bài thơ liên quan đến Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn (? – 898). Ông lúc đầu là học trò của Bách Trượng Hoài Hải. Tuy rất thông minh, học một biết mười nhưng có lẽ vì quá nhiều tri thức, lúc thầy còn sống, không sao ngộ đạo được. Sau theo học sư huynh là Quy Sơn Linh Hựu. Quy Sơn mới bảo: Nếu ngươi nói được một câu về bản lai chân diện mục của ngươi (Nhữ vị xuất bào thai, vị biện đông tây thì, bản phân sự) thì ta sẽ thay mặt tiên sư chứng minh cho. Bao lần ông đưa ra lời giải đều bị Quy Sơn phủ nhận. Tuyệt vọng, Hương Nghiêm bèn bỏ Quy Sơn đến lập am bên mộ Huệ Trung Quốc Sư ở Nam Dương, tập trung suy nghĩ. Một hôm, khi đang cắt cỏ trong núi, nhân quẳng ngói và mấy hòn sỏi chạm vào thân cây trúc, phát ra tiếng, bèn cất tiếng cười lớn và ngộ đạo. Tiếng động của ngói sỏi vào thân trúc như một cơ duyên, cho nên trong một sát na, Hương Nghiêm bừng tỉnh, thấy được “chân thực tự kỷ” của mình tức con người bản lai trước khi cha mẹ sinh ra. Ông bèn tắm rửa, xông hương, ăn mặc tề chỉnh đến gặp Quy Sơn để bái tạ. Trường hợp Hương Nghiêm ngộ đạo là vì ông đã nhất thiết bỏ quên tất cả những phân biệt đến từ trí tuệ và học vấn (ngũ quan + tư duy) để đi vào trạng thái “trực hạ vô tâm” “vô tướng tự kỷ”. Để diễn tả tâm cảnh trống không (bần) đó, ông đã có bài kệ: Khứ niên bần vị thị bần, Kim niên bần thủy thị bần. Khứ niên bần do trác chùy địa, Kim niên bần chùy hựu vô. Năm ngoái nghèo, chưa thể gọi đâu, Nghèo đấy, dùi còn cắm đất sâu. Năm nay mới thực nghèo xơ xác. Cả cái dùi không chẳng thấy nào.[11]
Tương Đàm là điển cố Trung Quốc, có liên quan đến đầm Vân Mộng thời thái cổ, đến Nhị phi của vua Thuấn và cả Khuất Nguyên. Còn Trúc Chi Từ là khúc hát dân dã nói về chuyện Nhị phi nhập thủy đã từng thấy trong thơ Lưu Vũ Tích đời Đường. Theo lời giải thích của Yanagida Seizan thì hai chữ Tương Đàm đã có trong thơ của Hòa thượng Đam Nguyên vịnh cuộc vấn đáp giữa Nam Dương Trung Quốc Sư và Hoàng đế Đại Tông về tháp Vô Phùng (cái tháp tự nhiên, không do con người xây nên, ở đây ám chỉ người đệ tử chân chính có thể kế nghiệp thầy). Nam Dương Huệ Trung (675?-775?) là môn đệ xuất sắc nhất của Lục Tổ Huệ Năng và là người đầu tiên được ban danh hiệu quốc sư. Tương Đàm có thể xem như biểu tượng của phần mộ quốc sư (được ví với nguồn cội của đạo pháp). Tiếng đá đập vào thân trúc Hương Nghiêm đã nghe phải chăng là tiếng gọi của quốc sư giúp ông ngộ đạo (vì những hào khách khác còn mãi say sưa túy lúy, không ai ý thức Tương Đàm chính là nơi thánh địa vì có mộ của Quốc Sư).
Linh Vân đào hoa
Phong lưu ngộ đạo thoại đầu tân,
Đài nhược hiền Sa hư tả chân
Lưu Lang độc khí thư hoàng khẩu,
Hoa trán Huyền Đô quán ngoại xuân.
Linh Vân thấy hoa đào
Phong lưu ngộ đạo, mới nghe xong,
Chân ngụy Huyền Sa định thử ông.
Văn vẻ chàng Lưu lời tráo trở,
Huyền Đô đào quán đã phai hồng.
Bài thơ nói về hoàn cảnh ngộ đạo của thiền sư Linh Vân Chí Cần (năm sinh và mất không rõ) người Phúc Châu, nhìn thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, chép trong Cát Đằng Tập, tắc 8). Linh Vân sau đó có bài tụng: Tam thập niên lai tầm kiếm khách. Kỷ hồi diệp lạc hựu trừu chi. Đào hoa nhất kiến thử thời hậu, Trực chí như kim cánh bất nghi. để đưa lên cho thầy mình là Quy Sơn Linh Hựu. Trạng thái của Linh Vân là đã tự giác về bản thân (nhìn hoa đào với tâm cảnh “trực hạ vô tâm” như cách nói của Hoàng Bá). Từ sau “nhất kiến” ấy, ông không còn nghi ngờ gì nữa (chính niệm tương tục). Có người giải thích rằng lúc đó không phải Linh Vân nhìn thấy hoa đào mà hoa đào đã nhìn thấy Linh Vân. Đời sau, nhà thơ Bashô của Nhật Bản có viết bài haiku giản dị nhưng khá được yêu chuộng: Yoku mireba / Nazuna hana saku / Kakine kana = Nhìn kỹ, dưới bờ dậu. Nở một cánh hoa tim[12]).
Lưu Lang tức Lưu Vũ Tích (dù ám chỉ Lưu Thần Nguyễn Triệu trong Đào hoa nguyên ký). Ông có thơ về hoa đào ở đạo quán Huyền Đô rất nổi tiếng. Tương truyền ông đã viết về đề tài này đến hai lần (lời tráo trở). Một lần ở Lãng Châu để phúng thích quan lại trong triều. Lại bị biếm sang Bá châu. Hiền Sa ám chỉ Huyền Sa Sư Bị (835-908), một cao tăng đức độ nhưng mù chữ, nhờ vấp chân phải đá, đau điếng người mà ngộ đạo.
Ngưu
Dị loại hành trung thị ngã tằng,
Năng y năng dã cánh y năng.
Xuất sinh vong khước lai thời lộ,
Bất thức đương niên thùy thị tăng.
Trâu
Lẫn trong muông thú, dạy cho câu.
Ta là chi, vốn đến từ đâu?
Mới sinh sao vội quên nguồn gốc.
Có biết xưa từng kiếp áo nâu.
Bài thơ bắt nguồn từ một công án của Quy Sơn. Theo một giai thoại, Ikkyuu chỉ một con trâu và hỏi các đệ tử của mình rằng nếu một trăm năm sau, có người bắt gặp một con trâu bên hông có ghi chữ “Tăng Quy Sơn” thì người đó phải gọi nó là con trâu hay là Quy Sơn. Câu thứ hai phải thoát dịch vì nguyên văn hơi hiểm hóc: Năng y cánh dã cánh năng y đại ý nói: Cái mà anh có thể làm được tùy thuộc vào việc anh là cái gì, chỗ mà anh có mặt tùy thuộc vào việc anh có thể làm được gì. Theo Ikkyuu thì con trâu chính là Quy Sơn đã hóa kiếp. Giai thoại đi xa hơn một chút. Đêm đó, con trâu lăn đùng ra chết và chủ nhân con trâu mới dằn vặt Ikkyuu: “Chính bài thơ của thầy đã giết mất con trâu của tôi”.
Bệnh trung
Phá giới sa môn bát thập niên,
Tự tàm nhân quả bát vô thiền.
Bệnh bì quá khứ nhân quả quả,
Kim hành hà tạ kiếp không duyên.
Trong khi mang bệnh.
Thầy chùa phá giới tám mươi năm,
Thẹn lối thiền không quả chẳng nhân.
Lâm bệnh mới hay nhân tạo quả,
Hỏi làm sao dứt nghiệp tiền thân.
Bài thơ này muốn làm sáng tỏ công án Bách Trượng dã hồ (Con chồn hoang của Bách Trượng) nói về một thiền sư vì chấp nhất vào chuyện có nhân quả hay không mà bị đọa làm kiếp chồn hoang suốt 500 năm (trả lời khẳng định hay phủ định nhân quả đều bị đọa, rõ khổ!). Tắc này có chép trong Vô Môn Quan của Triệu Châu[13]. Qua bài thơ nói trên, Ikkyuu tỏ ý e ngại rằng tu Thiền kiểu ông là không lý đến nhân quả trong khi mắc bệnh mới biết phải có nhân nào đó trong quá khứ mới có quả như hôm nay.
Mặt khác, Ikkyuu cũng có thơ trình bày về khái niệm triết học Tứ liệu giản của dòng Lâm Tế. Khi tổ sư của Ikkyuu là thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền nhân có tăng hỏi “Tứ liệu giản là gì?”[14] đã dùng hai câu thơ để trả lời về vế thứ nhất của nó (Đoạt nhân bất đoạt cảnh).
Câu nhật phát sinh phố địa cẩm,
Anh hài thùy phát bạch như ti.
Nắng hửng, vườn xanh ra tựa gấm,
Hài nhi, tóc xõa bạc như tơ.
Ý Lâm Tế muốn nói thiên nhiên trường cửu lúc nào cũng đẹp song đứa trẻ thơ sinh ra mới đó đã già vì cuộc đời vốn ngắn ngủi.
Bài kệ giải thích khái niệm đó của Nhất Hưu cũng được chép trong Cuồng Vân Tập. Ta thấy nó độc sáng và tài hoa hơn hai câu của tổ sư Lâm Tế vốn là người nghiêm khắc, thích quát tháo, không có tinh thần thi ca là mấy:
Đoạt nhân bất đoạt cảnh (giả đề)
Bách Truợng Quy Sơn danh vị hưu,
Dã hồ thân dữ thủy cô ngưu.
Tiền triều cổ tự vô tăng trú,
Hoàng diệp thu phong cộng nhất lâu.
Thầy Bách thầy Quy danh chửa vơi,
Thân trâu thân cáo chuyện luân hồi.
Chùa bao đời trước tăng đâu thấy,
Tháp quạnh, thu phong, lá úa thôi.
Dĩ nhiên 2 câu thơ đầu tóm tắt ý nghĩa của các công án nổi tiếng về Bách Trượng và Quy Sơn đã được giải thích bên trên. Ý nói con người khó thoát vòng luân hồi chuyển sinh. Nó tương xứng với “đoạt nhân” trong ngữ cảnh của Tứ Liệu Giản. Hai câu thơ sau như muốn đặt câu hỏi không biết các nhà sư các đời trước chết di có thành trâu thành cáo hay không chứ nhìn mà xem, dù con người khuất bóng nhưng cảnh chùa xưa vẫn còn y nguyên đó với ngôi tháp quạnh quẽ, lá vàng trong ngọn gió thu. Hai câu sau tương xứng với “bất đoạt cảnh” vậy.
Hai câu đầu có tính triết lý, trừu tượng, hai câu thơ sau có tính cảm giác cụ thể. Chúng trở thành một cặp đối chiếu. Đó là một thủ pháp mà Ikkyuu cũng như bao thi nhân Nhật Bản hay dùng. Nó khác với thủ pháp trên dưới nhất quán của thi nhân Trung Quốc (tuyệt cú Đường Tống, ví dụ bài Giang tuyết của Đỗ Phủ hay Giang Nam Xuân của Đỗ Mục) nên người ta tự hỏi có phải chăng đây có thêm một bằng chứng nữa về việc người Nhật tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc nhưng lúc nào cũng muốn thoát ra khỏi khuôn mẫu Trung Quốc.
Không ngừng lại ở tầm cỡ tổ sư Lâm Tế, nghị luận triết học của Ikkyuu leo lên tận đại tôn sư Thích Ca. Hãy đọc bài thơ sau đây thì rõ:
Phá tỉ dụ thị bệnh tăng
Cung ảnh hào manh tại tửu trung,
Độc xà ảnh lạc khách bôi cung.
Phong lâm hoàng diệp Thục giang cẩm,
Nhiễm đắc tâm đầu mãn mục hồng.
Dạy học trò mắc bệnh chớ tin vào tỉ dụ
Chén rượu in hình cong cánh cung,
Mà ngờ rắn độc sợ vô cùng.
Rừng phong đất Thục sông như gấm,
Nhuộm hết toàn thân một sắc hồng.
Bài thơ như thể viết vội, không đầu đuôi, hai câu trên và hai câu dưới không dính dáng vào nhau. Tích “bôi cung xà ảnh” và “lá phong đỏ trên sông Cẩm giang” đất Thục có liên hệ gì với nhau? Thực ra ý nghĩa của nó rất cao siêu.
Thực ra hai chữ “bệnh tăng” trong đầu đề là để chỉ những tăng sĩ có thắc mắc về đạo muốn tham vấn. Bởi vì nhà Phật có câu “ứng bệnh dữ dược” và Thích Ca thường dùng tỉ dụ (ám thị) để giải tỏa thắc mắc cho họ chứ không hề nói thẳng. Tỉ dụ nhiều vô số, nó trở thành phương tiện để dẫn dắt chúng sinh. Thế nhưng tỉ dụ không phải là Phật pháp, nó chỉ là phương tiện để nắm bắt Phật pháp. Bệnh tăng lại “chấp” vào tỉ dụ và tin đó như Phật pháp nên thành ra lầm đường.
Hào manh có nghĩa là bệnh không trị được. Có kẻ đến chơi nhà bạn, thấy bóng cây cung trên tường in vào chén rượu mình mà ngỡ ra rắn độc đang phun nọc. Đó là bệnh nghi ngờ. Hoàng diệp (hồng diệp) còn là tỉ dụ của hoàng kim. Phong lâm cũng là một thứ mê hoặc lòng người (Thơ Đỗ Mục: Đình xa tọa ái phong lâm vãn, Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa). Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị cũng đều có thơ nói về vẻ đẹp của Thục giang (Cẩm giang). Chớ thấy cảnh rừng phong đất Thục đẹp mà để cho màu đỏ của nó nhuộm khắp người mình (tâm đầu mãn mục). Như thế, tác giả khuyên người học đạo chớ “chấp” vào tỉ dụ, vì nếu như thế, sẽ có tỉ dụ về tỉ dụ, chúng sinh sôi nẩy nở khôn cùng và làm ta ngày càng đi xa bản chất của đạo.
8) Thơ tả tình tả cảnh:
Thơ Ikkyuu mượn chuyện tả tình tả cảnh để trình bày nhân sinh quan cũng như đạo tâm của mình khá nhiều. Từ Sen trắng trong ao nhỏ (Bồn trì bạch liên), Chuông con đón gió (Phong linh), Khóc chim sẻ bị chết (Tôn lâm, tước nhi hiệu), Đêm lạnh than cho con chim trên núi tuyết (Hàn dạ thán tuyết sơn điểu), Mở lồng thả côn trùng (Khai lung phóng trùng), Nghe tiếng sáo trên đường về (Qui lộ văn địch) cho đến Khóc lính tử trận (Điếu chiến tử binh), Thay lời tội nhân chết chém (Đại đoạn đầu tội nhân) vv….
Xin tuyển dịch thêm dưới đây một số bài vịnh Tiêu Tương bát cảnh, xem như tác phẩm tiêu biểu cho loại thơ này:
Động Đình thu nguyệt
Động lý minh minh nguyệt nhất luân,
Quảng Hàn cung điện thuộc ngâm thân.
Hằng Nga du dược tri hà xứ,
Lương dạ trung đình thu sắc tân.
Nhất luân minh nguyệt Động Đình thu,
Bất dạ thành trung kỷ dạ du.
Trường lãnh tây lâu độc ngâm khách,
Thanh thiên bích hải sự du du.
Trăng thu hồ Động Đình
Lũng sâu thắp sáng một vầng trăng,
Cung Quảng tình ai những giá băng.
Trộm thuốc chị Hằng nào thấy bóng.
Ngoài sân đêm tạnh sắc thu ngần.
Động Đình trăng bạc đã lên khơi,
Không ngủ, thành kia bày cuộc chơi.
Lạnh lẽo lầu Tây khách than thở,
Trời xanh bể biếc mấy năm rồi.
Bất Dạ Thành là xóm ăn chơi, nơi có những cuộc du hí thâu đêm suốt sáng. Người khách lòng se lạnh trên lầu Tây là Khuất Nguyên hay chính Ikkyuu với tâm sự cô đơn, nhìn “thế sự du du” vì có nói cũng chẳng ai nghe?
Sơn thị tình lam
Sơn đầu tử mạch tục trần hồng,
Náo thị hốt hốt lam tế phong.
Thương nữ hưu ca vong quốc khúc,
Ái tài gia nghiệp hứng nan cùng.
Nhai đầu thập tự tại sơn đầu,
Phong ngoại tình lam phú quý thu.
Vạn quán tiền vô nhất thiên mễ,
Thị nhân thương nữ hảo phong lưu.
Chợ núi giông tạnh
Qua lại đầu non khách bụi nhơ
Gió luồn ngang chợ nhạt sương mờ.
Gái buôn ngưng hát câu vong quốc,
Tiền bạc nghiệp nhà, cứ thế vơ.
Đường ngang lối dọc tại đầu non,
Gió tạnh trời trong, của cải dồn.
Một vạn quan tiêu, cơm một bữa,
Gái buôn khách chợ thảy xinh dòn.
Cho dù nước mất nhà tan (vong quốc = đạo pháp suy vi) thì con buôn tôn giáo (thương nữ) vẫn bình thản trục lợi.
Giang thiên mộ tuyết
Thủy thiên vạn lý tuyết phi phi,
Hà xứ hàn phong động tửu kỳ.
Hành nhân vô lộ Tương giang mộ,
Thụ thụ khai hoa bạch ngọc chi.
An tâm Nhị Tổ Thiếu Lâm thiền,
Danh biến giang hồ tượng cốt tiền.
Nguyệt mãn mai hoa xuân tín để,
Lĩnh Nam tiêu tức cựu gia duyên.
Chiều tuyết trên sông
Liền trời với nước, tuyết bay bay,
Gió lạnh đâu nơi cờ quán lay.
Chiều tối sông Tương không lối khách,
Trên cây bạch ngọc ngỡ ai bày.
Thiếu Lâm Nhị Tổ tu an tâm,
Danh chấn giang hồ Tượng Cốt thân.
Mai dưới nguyệt đầy báo xuân đến,
Cũng đưa tin bạn Lĩnh Nam gần.
Cảnh chiều tuyết trên sông thường nói lên tâm sự người tha hương. “Hàn phong động tửu kỳ” dĩ nhiên là danh cú để Ikkyuu biểu lộ lòng quí mến Đỗ Mục (Giang Nam Xuân: Thủy thôn sơn quách tửu kỳ phong). Tương giang còn gợi nhớ Khuất Nguyên, Ngư phụ, Nga Hoàng Nữ Anh, Vu Sơn thần nữ, Nam Dương quốc sư, Tiền Khởi, Liễu Tôn Nguyên nữa chứ. Họ đều là những nhân vật quen thuộc với tác giả. Bạch ngọc không chỉ nói về tuyết mà còn nói về hoa mai nở sớm như trong thơ Trương Vị. Tảo mai: Nhất thụ hàn mai bạch ngọc điều. Hồi lâm thôn lộ, bàng khê kiều (Đường thôn quay gót bên cầu suối. Mai nụ đầy cây như ngọc giây).
Bài thứ hai nhắc đến một người đứng lì trong tuyết, chặt tay cầu đạo. Đó là Nhị Tổ Huệ Khả.[15] Vấn đáp giữa thầy trò Đạt Ma Huệ Khả có chép trong Truyền Đăng Lục 3. Tượng Cốt trong câu thừa ám chỉ Tuyết Phong Nghĩa Tồn vì đó là biệt hiệu của ông. Tăng Tuyết Phong có lần đến Hồ Nam (giang hồ) bị tuyết cản không đi được, nhờ Nham Đầu Toàn Hoát trợ lực mới đại ngộ (xem Bích Nham Lục 5). Câu thứ 4 nói về chuyện Lục Tổ Huệ Năng gốc tích là hành giả ở Hoàng Mai Sơn và chuyện ông thuyết phục được thượng tọa Huệ Minh, người tranh giành y bát của ông ở Mai Lĩnh (Đại Dữu Lĩnh)[16]. Ikkyuu nói chuyện tuyết để dẫn đến chuyện mai (tuyết trung mai) và ca ngợi thiền phương nam (Nam Tông) cũng như muốn nối kết nó với gốc tích phương bắc (Thiếu Lâm) qua hình ảnh một cành mai[17].
Thực ra toàn bộ Tiêu Tương bát cảnh Ikkyuu viết có tất cả 16 bài. Tiếp theo mấy bài trên thì vẫn là những đề tài Viễn phố qui phàm, Viễn tự vãn chung, Ngư thôn tịch chiếu, Bình sa lạc nhạn, Tiêu tương dạ vũ…nhưng trong đó yếu tố tả cảnh chỉ là thứ yếu. Có chăng Tiêu Tương là một vùng đất huyễn tưởng như Đào Nguyên mà thi nhân Nhật Bản cũng như Ikkyuu mến mộ, nhớ về, và ông mượn bối cảnh đó để trình bày tư tưởng tôn giáo của mình.
9) Thơ phản ảnh cuộc sống tình ái trụy lạc, đồi phế:
Ikkyuu thường định nghĩa về mình như Phá giới sa môn bát thập niên, hay Tội quá di thiên Thuần tạng chủ,…Vô lượng kiếp lai ác đạo chủ, hoặc là Ngã bản lai mê đạo chúng sinh, Ngu mê thâm cố bất tri mê, Sắc dâm, tửu dâm hựu thi dâm…rồi tiếp tục than thở Chúng sinh bản lai mê đạo tâm. Đối với ông, đó là một điều đáng buồn hơn nữa vì nó xảy ra cho cả mọi người trong xã hội chứ chẳng riêng mình.
Đông Phường Thanh Hòa tức Sugawara Kazunaga mà chúng ta đã nhắc đến ở trên như một trong hai người cùng thời đại đã giúp ta một số chi tiết về cuộc sống riêng tư của Ikkyuu. Theo đó, ông không những là con rơi của Thiên hoàng Go Komatsu (như đã trình bày) mà còn là cha đẻ của Hoà thượng Jôtei (Thiệu Trinh) và cũng là người truyền chính pháp cho ông này. Kazunaga biết rõ về Jôtei vì Jôtei chính là thầy của ông ta. Tokugawa Mitsukuni – lãnh chúa phiên Mito, người chú của Shôgun và cũng là nhà biên tập sử – đã cho ghi lại câu chuyện này trong 23 chỗ của phần liệt truyện ở quyển thứ 99 bộ Dai Nihonshi (Đại Nhật Bản Sử), vốn là một cuốn sử đứng đắn và dày công thực hiện. Theo đó thì Ikkyuu đã sinh ra Jôtei lúc ông khoảng 34 tuổi.
Nenpu cho ta biết Ikkyuu có những hành tung kỳ dị để tóc xõa, mang kiếm gỗ đi ngoài đường nhưng cho rằng hành động lạ lùng đó chỉ có tính cách phúng thích để giáo hoá chúng sinh về sự chân thực (mộc kiếm không phải là kiếm thực, không giết được người mà cũng chẳng cứu được người). Ngoài ra trong đó, tuyệt nhiên Sôtô (Thiệu Đẳng) tác giả Nenpu không cho ta thấy một hình ảnh tiêu cực nào về Ikkyuu cả. Thế nhưng chính Kyôunshuu có nhắc đến câu Ngư hàng, tửu tứ hựu dâm phường, ba nơi mà một nhà tu hành đứng đắn không có quyền lui tới. Đó lại là chỗ Ikkyuu tuyên bố mình hầu như đóng đô. Trong lời giải thích cho thơ mình viết trong Kyôunshuu, Ikkyuu có nhắc: “Các bậc tôn túc đồng môn răn ta không được ăn thịt hay phạm điều tà dâm, các tăng trong chốn tùng lâm cũng lấy chuyện đó làm tức giận”.
Trong Nenpu không cho biết Ikkyuu có tình nhân hay ái thiếp. Tuy vậy, trong chính tác phẩm Kyôunshuu, lại có bằng chứng hòa thượng ở bên cạnh mấy người tỳ thiếp. Nếu không thế thì sao lại có những bài thơ với đề tài như “Ký cận thị mỹ nữ”, “Ký thị thiếp” vv… Ngoài ra, theo tin tức trong “Tán ngự A Cô thượng lang sấu dung”, “Ký ngự A Cổ khai dục”, “Ngự A Cổ cách tịch” thì Ikkyuu còn có một nàng ái thiếp tên là Ako (A Cổ hay A Cô) nữa.
Ký ngự A Cổ khai dục
Khỏa thể như hà kiến chúng nhân,
Hoa nhan thúy đại tẩy hồng trần.
Lão tăng quán mộc dục khai hậu,
Hành hạnh ôn tuyền Thiên Bảo xuân.
Ghi chép việc thị giả A Cổ đi tắm
Có thấy chăng ai dáng khỏa thân,
Mặt hoa mày biếc rửa màu trần.
Lão tăng xối nước cho người tắm,
Rồi ghé ôn tuyền thưởng sắc xuân.
Khai dục có nghĩa là đi tắm trong ngôn ngữ nhà Thiền. Hoa nhan vốn thấy trong Oán ca hành của Lý Bạch, có nghĩa khuôn mặt người đẹp phấn son như hoa. Thúy đại là mực vẽ lông mày biếc. Hồng trần là bụi bặm chốn trần thế. Quán mộc là tưới nước cam trà tắm Phật lúc ngài đản sanh. Lão tăng có thể chính là Ikkyuu ta nhưng cũng có thể ám chỉ Ngũ tổ đời Đường. Câu thơ cuối cùng đến từ Trường Hận Ca nói về việc Minh Hoàng và Dương Quí Phi đi tắm suối nước nóng trong cung Hoa Thanh trên Ly Sơn vào năm Thiên Bảo. Tuy nhiên trước đời Thiên Bảo, tương truyền đã có chuyện Tắc Thiên Vũ Hậu ra lệnh cho cung phi thù tiếp Thần Tú và Huệ An đi tắm. Bà rất kính trọng các cao tăng Bắc Tông là Thần Tú và Huệ An (ngang hàng Lục Tổ Huệ Năng của Nam Tông).
Hạ Mộng Khuê Cổ thị giả qui tự
Tam nhật biệt ly vĩnh kiếp tâm,
Tương giang lệ vũ sái hung khâm.
Mộng Khuê liêm ngoại tùng tiêu nguyệt,
Sơn xá dạ thâm quân cộng ngâm.
Mừng thị giả Ako của Mộng Khuê trở về chùa
Xa có ba hôm, mấy kiếp mong,
Sông Tương mưa lệ đến khô lòng.
Tùng đơn am vắng kề trăng núi,
Muốn ghé bên ai tâm sự chung.
Thị giả Ako về quê 3 hôm thôi mà Mộng Khuê (Muukei) tức Ikkyuu của chúng ta đã thấy bứt rứt. Tương giang lệ vũ là nước mắt khóc thương vua Thuấn của nhị phi như mưa trên sông Tương. Ông cho biết vì nhớ nàng đã khóc đến khô nguồn lệ. Hạnh phúc của ông là được thủ thỉ một mình bên tai nàng trong gian nhà vắng trên núi. Tùng tiêu nguyệt hay trăng treo trên ngọn tùng tả cảnh chùa núi như trong thơ Trịnh Cốc (Dạ thanh tăng bạn túc, Thủy nguyệt tại tùng tiêu). Về Sơn xá dạ thâm thì thơ Hư Đường có câu: Sơn xá bán xuy hoàng lạc phong (Giang Hồ Tập, quyển thượng).
Ký cận thị mỹ nữ
Dâm loạn thiên nhiên ái thiếu niên,
Phong lưu thanh yến đối hoa tiền.
Phì tự Ngọc Hoàn sấu Phi Yến,
Tuyệt giao Lâm Tế chính truyền thiền.
Gửi người đẹp hầu cận
Dâm loạn thường hay khoái thiếu niên,
Phong lưu vầy tiệc với người tiên.
Màu mỡ Ngọc Hoàn, ốm Phi Yến,
Thiền chi Lâm Tế, tổ thêm phiền..
Tuy nhiên “dâm loạn” cũng có thể hiểu là loạn mạch, đi ra ngoài giáo lý của dòng Lâm Tế chính tông. Thiên nhiên ở đây chắc không phải là Đan Hà Thiên Nhiên đời Đường vì sử sách không hề thấy nói ông ta có khuynh hướng đồng tính luyến ái (ái thiếu niên) bao giờ. Thiên nhiên còn có thể hiểu là những kẻ ngoại đạo (có chữ thiên nhiên hay tự nhiên ngoại đạo). Hoặc giả “ thiên nhiên” chỉ có ý là “khuynh hướng thường thấy” và “thiếu niên” là tuổi trẻ”, bất luận trai gái. Còn “tuyệt giao” có thể hiểu Ikkyuu muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Lâm Tế như vào đời Tấn, ẩn sĩ Kê Khang đã viết thư tuyệt giao với bạn là Sơn Đào vậy. Ngọc Hoàn là Dương Quý Phi và Phi Yến tức người đẹp “chưởng trung khinh” Triệu Phi Yến.
Chính ra có thuyết cho là trong đời hành đạo của Ikkyuu, đã có lần ông muốn bỏ rơi thiền Lâm Tế chính mạch để theo Tịnh Độ chân tông của Rennyo (Liên Như) vốn gần gủi với đại chúng bình dân hơn. Ông cũng từng có bài Tán Pháp Nhiên thượng nhân để ca tụng tăng Hônen (Pháp Nhiên truyền văn hoạt Như lai, An tọa liên hoa thượng phẩm đài) nữa.
Đề Giang Khẩu mỹ nhân câu lan khúc
Kiến sắc văn thanh ngâm hứng trường,
Minh tâm ngộ đạo một thương lường.
Sầu nhân bất thức Phổ Hiền cảnh,
Ca xúy tôn tiền tổng đoạn trường.
Đề nơi nhà trọ của người đẹp Eguchi
“Kiến sắc văn thanh” vẫn nhớ đời,
Tìm ra lẽ đạo lọ cần lời.
Chán ai chẳng hiểu lòng bồ tát,
Nâng chén cao ca, buồn khôn nguôi
Mỹ nhân Eguchi (Giang Khẩu) là đề tài một vở tuồng Nô nổi tiếng của Konparu Zenchiku (Kim Xuân Thiền Trúc), trong đó, bồ tát Phổ Hiền đã hoá thân thành cô gái làng chơi trên bến sông (giang khẩu) để khai ngộ cho tăng Saigyô (Tây Hành). Chính ra vở tuồng đã bắt nguồn từ truyền thuyết trong tín ngưỡng dân gian ở vùng Ôsaka. “Kiến sắc văn thanh” dĩ nhiên là một trong hai công án nổi tiếng về việc ngộ đạo không qua lời nói trong thiền lâm đã trình bày bên trên. Câu lan có nghĩa là nhà trọ của gái làng chơi.
Đến cuối đời, cô con hát mù Mori (Shinjisha: Sâm thị giả) đã chiếm một chỗ lớn trong cuộc sinh hoạt của Ikkyuu. Mối giao tình giữa hai người rất sâu đậm và Ikkyuu đã viết nguyên cả một chùm thơ nhan đề “Sâm thị giả”. Ngay cả đến khi chết, ông đã để lại thơ từ biệt thế gian với nhan đề “Luyến pháp sư Thuần tạng chủ từ thế thì”. Đến lúc chết (88 tuổi) mà còn tự xưng là Thầy chùa biết yêu (luyến pháp sư) thì quả là một người quá bôn phóng và sung sức!
Sau đây xin trình bày một loạt bài với chủ đề tình ái và nhục cảm trong Kyôunshuu để hiểu vì sao, Ikkyuu mang hình ảnh một nhà sư dâm đãng:
Tự Tán
Phong cuồng cuồng khách khởi cuồng tăng,
Lai vãng dâm phường tửu tứ trung.
Cụ nhãn nạp tăng thùy nhất tạt,
Họa nam họa bắc họa tây đông.
Tự vịnh
Cuồng khách như là trận gió lồng
Hết rời quán rượu ghé lầu hồng.
Muốn hiểu sư cuồng mau đến gặp,
Xin đừng múa bút vẽ lung tung.
Ikkyuu tự đề trên bức chân dung của chính mình bài thơ này. Bức họa về sau đã được nhà buôn lớn ở thành phố Sakai và cũng là đệ tử, Owa Shirôzaemon, tặng cho am Trân Châu (Shinjuuan) chùa Daitokuji. Theo ý trong bài thì Ikkyuu như muốn hỏi: Tuy vẽ vời khắp nơi đông tây nam bắc như thế nhưng hỏi thử thật ra các chú có ai đã đụng độ (nhất tạt) với ta để biết rõ bản chất của ta chưa?
Đề dâm phường
Mỹ nhân vân vũ ái hà thâm,
Lâu tử lão thiền lâu thượng ngâm.
Ngã hữu bão trì xiếp vẫn hứng,
Ý vô hỏa tụ xã thân tâm.
Đề ở lầu xanh
Sóng tình người đẹp ngập dòng sâu,
Thiền khách ngâm chơi dưới mái lầu
Lòng lão còn nồng hứng ôm ấp,
Thác về hỏa ngục sá chi đâu.
“Lâu tử” là khách tìm hoa. “Bảo trì” tức ôm ấp và “xiếp vẩn” tức hôn hít. “Hỏa tụ” vốn chữ trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về lửa địa ngục.
Tạ Sâm công thâm ân nguyện thư
Mộc điêu lạc diệp cánh hồi xuân,
Trường lục sinh hoa cựu ước tân.
Sâm dã thâm ân nhược vong khước,
Vô lường ức kiếp súc sinh thân.
Thư nguyện tạ ơn sâu thị giả Mori.
Cây tàn lá rụng lại hồi xuân,
Chồi đơm hoa nở, cựu thành tân.
Ơn cô sâu thế như không nhớ,
Chó ngựa trầm luân chịu một thân.
Thiền sư Ikkyuu ở đây đã thấy nơi thị giả Mori chân lý của đời mình. Nếu tin theo Kino Kazuyoshi, ta lại có thể hiểu một cách trần tục rằng hai chữ Sâm dã 森也có nghĩa là chỗ đó (âm hộ) của Mori, suối nguồn hạnh phúc tuyệt vời và thâm uyên của Ikkyuu. Ông bảo rằng nếu tôi quên ơn ấy của em thì xin làm thân chó ngựa.
Khán Sâm mỹ nhân ngọ thụy
Nhất đại phong lưu chi mỹ nhân,
Diễm ca thanh yến khúc vưu tân.
Tân ngâm trường đoạn hoa nhan yểm,
Thiên Bảo hải đường Sâm thụ xuân.
Nhìn mỹ nhân Mori ngủ trưa
Người đẹp phong lưu dễ mấy lần,
Tiệc vui ca ngọt khúc thanh tân.
Ngâm xong buồn nỗi nàng che mặt,
Say giấc hải đường như Thái Chân.
Sâm công ngọ thụy
Khách tán khúc chung vô nhất thanh,
Bất tri cực thụy kỷ thời kinh.
Địch diện đương cơ hồ điệp hý,
Thùy văn nhật ngọ đả tam canh.
Bà Mori ngủ trưa
Khách tan khúc vãn thảy im hơi,
Nàng vùi trong mộng, lúc nào thôi.
Đối mặt vờn nhau trò bướm lượn,
Đang trưa vẳng trống mấy canh rồi.
“Hồ điệp hí” dẫn tích Trang Chu mộng bướm để nói rằng không biết khung cảnh mộng hay thực. Câu cuối ý nói nàng ngủ thật say, mới giữa ban ngày mà giống như đã nửa đêm.
Dâm thủy
Mộng mê thượng uyển mỹ nhân Sâm,
Chẩm thượng mai hoa hoa tín tâm.
Mãn khẩu thanh hương thanh thiển thủy,
Hoàng hôn nguyệt sắc nại tân ngâm.
Nước tình
Người đẹp trong vườn mộng một đêm,
Cành mai trên gối, ước tình riêng
Miệng ứa làn hương giòng nước ngọt,
Chiều lên trăng mọc ngại ngâm thêm.
Mỹ nhân âm hữu thủy tiên hoa hương
Sở đài ưng vọng cánh ưng phàn,
Bán dạ ngọc sàng sầu mộng nhan.
Hoa trán nhất hành mai thụ hạ,
Lăng Ba tiên tử nhiễu yêu gian.
Chỗ kín của người đẹp thơm hương hoa thủy tiên
Đài Sở nhìn xong những muốn lên,
Nửa đêm giường ngọc nàng buồn tênh.
He hé dưới cành mai, một đoá,
Thủy tiên, hương tỏa giữa eo em[18].
Sâm công thừa liễn
Loan dư manh nữ thuộc xuân du,
Uất uất hung khâm hảo ủy sầu.
Già mạc chúng sinh chi khinh tiện,
Ái trước Sâm dã mỹ phong lưu.
Nàng Mori đi kiệu
Gái mù thường đáp kiệu du xuân,
Lòng tớ đang buồn bỗng nhẹ lâng.
Thiên hạ người người dù nhạo báng.
Cô kia ta thấy điệu vô ngần.
Hấp mỹ nhân dâm thủy (nhị thủ)
Mật khải tự tàm tư ngữ minh,
Phong lưu ngâm bãi ước tam sinh.
Sinh thân trụy tại súc sinh đạo,
Tuyệt thắng Quy Sơn tải giác tình.
Đỗ Mục lỗi trạ[19] thị ngã đồ,
Cuồng Vân tà pháp thậm nan phù.
Vị nhân khinh tiện diệt tội nghiệp,
Ngoại đạo ba tuần kỷ thất đồ.
Hút nước tình của người đẹp (hai bài)
Riêng tư chuyện thẹn, dấu cho giùm.
Ba kiếp phong lưu ước sống chung.
Đời nay đã đọa vòng trâu ngựa,
Nào đợi thân sau mới lộ sừng.[20]
Đỗ Mục buông tuồng giống tính ta,
Cuồng Vân tà giáo, thảy đều xa.
Cho người khinh miệt hòng tiêu tội,
Bao độ lầm đường, lạc lối ra.
Chính ra đầu đề (rất tục) và nội dung của hai bài thơ trên (rất thanh) không thấy có mối liên hệ rõ ràng. Chỉ biết Ikkyuu tự coi mình như kẻ vô lại, hoang đàng, yêu thích mỹ nhân giống nhà thơ Đỗ Mục đời Đường. Bài trên nói rằng cần gì phải đợi đến kiếp sau để thành “con trâu cò nằm trước nhà đàn việt bên kia núi” như trong ví dụ về thiền sư Quy Sơn Linh Hựu. Trong đời này ông cho biết đã làm bao nhiêu hành vi lầm lạc, đủ để trực tiếp sa vào súc sinh đạo rồi, nào phải đợi mai sau mới đầu thai thành loài vật. “Ước tam sinh” là cái hẹn “ba sinh hương lửa” giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi. Bài sau trình bày quan niệm con người có thể nhẹ được tội lỗi mình gây ra trong kiếp trước nếu để cho kẻ khác khinh miệt trong kiếp này. Điều ấy đã được bàn đến trong Kinh Kim Cương. “Thất đồ” có nghĩa là lầm đường lạc lối.
Hoán ngã thủ tác Sâm thủ
Ngã thủ hà tự Sâm thủ,
Tự tín công phong lưu chủ.
Phát bệnh trị ngọc hành manh,
Thả hỉ ngã hội lý chúng.
Đổi tay ta lấy tay thị giả Mori
Tay mình sao sánh được tay em,
Chắc rằng tay đó thuốc nhà tiên.
Ngọc hành nhức nhối trị cũng dứt,
Các trò có thấu chút vui riêng?
“Đổi tay này lấy tay kia” là cách nói mà chúng ta nhớ đã từng thấy trong Vô Môn Quan do Triệu Châu Tùng Thẩm viết, phần phụ lục nói về Hoàng Long Tam Quan. Hòa Thượng Hoàng Long Huệ Nam là giáo tổ phái Hoàng Long thuộc dòng Lâm Tế. Bài tụng của ông có những câu như: Ngã thủ hà tự Phật thủ. Ngã cước hà tự lư cước. Nhân nhân hữu cá sinh duyên….(Tay ta nào giống tay Phật, Chân ta nào giống chân lừa. Trên đời ai cũng sinh ra. Từ một nhân duyên nào đó…). Đây là một công án nói về “Tân chủ giao hoán” tức “Khả năng tráo nhau giữa vai chủ và vai khách”, ta với mình tuy hai mà một, suy ra thì con người từ đầu phải quên cái ta (tự kỷ) thì mới hành thiền được.[21]
Qua bài thơ nói trên, có người sẽ hỏi giữa Ikkyuu và nữ thị giả Mori có liên hệ tính dục hay không. Về điều này, các nhà nghiên cứu chuyên môn về ông cũng không đi đến chỗ thống nhất ý kiến. Yanagida Seizan cho rằng cách biểu lộ như trên chỉ là hư cấu (fiction) trong khi Hirano Sôjô bảo là sự thực. Hirano bình thản giải thích rằng nếu Lâm Tế là một dòng thiền phủ định giới luật thì việc làm của Ikkyuu có gì mà khiến ta phải ngạc nhiên.
Thị Nam Phường Trinh
Dũng sắc hứng tận đối thê dâm,
Hiệp lộ Từ Minh nghịch hành tâm.
Dung dị thuyết thiền năng kỵ khẩu,
Nhiệm tha vân vũ Sở đài ngâm.
Dặn trò Nam Phường Thiệu Trinh (Nanbô Chôtei)
Hết hứng tình trai, ấp vợ nhà,
Hẻm vắng Từ Minh lại rủ qua.
Muốn dễ giảng thiền, nên kín tiếng.
Mây mưa nước Sở mặc người ta.
Nanpô Jôtei (Nam Phường Thiệu Trinh, 1428-1499) là học trò buổi vãn niên của Ikkyuu mà ông rất yêu mến. Đông Phường Thành Hòa còn cho biết người đó chính là con trai của Ikkyuu. Bài thơ trên được biết là bài thơ duy nhất Ikkyuu gửi cho Thiệu Trinh. Đây là một tác phẩm nói đến quan hệ đồng tính luyến ái, hơn thế nữa, đó là ấu dâm (pederasty) hiện tượng thông thường trong các chùa thiền và võ sĩ đoàn thời Trung Cổ (có thể xem trong các sách vở thời đó như Tsurezuregusa của Yoshida Kenkô[22] hay văn chương Ihara Saikaku[23], Tanizaki Jun.ichirô[24]). Từ xưa, cung cấm, thiền viện, đạo quán, quân đội, nhà tù, tóm lại những không gian bưng bít thường là nơi dễ nẩy nở ra những liên quan tính dục đồng phái. Thế nhưng ở đây, qua bài thơ trên, nó là một sự thật hay chẳng qua là ẩn dụ văn học? Thật khó lòng biết.
“Dũng sắc” được dùng như tiếng lóng để chỉ nam sắc (danshoku, homosexuality) vì “dũng 勇” và “nam 男” có tự dạng giống nhau. “Thê” (vợ) ở đây có thể hiểu là Thiệu Trinh. Còn Từ Minh thì được biết như đã từng “hẹn hò” với Dương Kỳ Phương Hội. “Nghịch hành” có nghĩa là “mời ngược”. Thường thì Phương Hội mới mời Từ Minh cơ. Nội dung câu thứ ba của bài thơ rất quan trọng vì “kỵ khẩu” là giữ bí mật”, “đừng nói cho ai hay” nhưng bí mật này là gì? Hoặc giả nó là lối truyền thụ trực tiếp “bất dụng văn tự”. Câu chót mượn ý thơ Lý Ích trong bài Tả tình. Khi người yêu của Lý Ích là Lý Quần Ngọc bị tử hình, ông sống như người điên rồ, giải bày tình cảm u uất qua câu Nhiệm tha minh nguyệt há Tây lâu. Nhiệm tha là “mặc người khác”. Ikkyuu tự ví mình đang mang tâm trạng thây kệ mọi sự như vậy.
Bà tử thiêu am (đề đặt tạm)
Lão bà tâm vị tặc qua thê,
Thanh tĩnh sa môn dữ nữ thê.
Kim dạ mỹ nhân nhược ước ngã,
Khô dương xuân lão cánh sinh đề.
Bà lão đốt am
Bà lão bắc thang cho trộm leo,
Sa môn trai giới gái sai đeo.
Thăm ta mỹ nữ đêm nay đến,
Sẽ thấy cành khô sống dậy theo
Bài thơ này dụng điển Bà tử thiêu am (Bà lão đốt am), một công án nổi tiếng. Theo Cát Đằng Tập, tắc 162, có một lão bà nuôi am chủ trong 20 năm, sau sai người con gái đẹp tuổi mới đôi tám (nhị bát = 16 tuổi) đến thử lòng. Cô vừa ôm lấy thầy vừa đặt câu hỏi: Chính dữ ma thì, như hà? (Gặp cảnh như vầy thì thầy thế nào ?) nhưng am chủ không động tình, còn lên tiếng ví von một cách hãnh diện, xem mình là: Khô mộc ỷ hàn nham, Tam đông vô noãn khí (Cây khô tựa ghềnh đá lạnh, Ba mùa đông không hơi ấm). Lão bà bèn mắng thầy một trận là đồ nuôi tốn cơm, đuổi thầy ta đi rồi đốt am. Thế nhưng Ikkyuu ra tuyên bố là nếu gặp trường hợp đó ông sẽ phản ứng tự nhiên như cành dương liễu khô queo sống lại (cánh sinh đề = lại nẩy mầm) chứ không khống chế dục tình như am chủ. Nhưng xin coi chừng! Bài tụng của Khuếch Am Sư Viễn (Nam Tống) trong Thập Ngưu Đồ đã thấy chữ: Trực giáo khô mộc phóng hoa khai. Động Sơn Lục lại có câu: Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân. Tiên hiền đã phát biểu như thế nên độc giả phải tự tìm hiểu Ikkyuu đang nói chuyện đời hay chuyện đạo.
Luyến pháp sư Thuần tạng chủ từ thế thi
Bình sinh trường vịnh đoản ca trung,
Thị tửu dâm thi vĩnh nhật không.
Thân hậu tinh hồn hà xứ khứ,
Hoàng Lăng dạ vũ Mã Ngôi phong.
Thơ giã từ cuộc đời của Tông Thuần, thầy chùa biết yêu.
Cả đời câu ngắn lẫn câu dài,
Nát rượu mê thơ vịnh tối ngày.
Mai mốt linh hồn tìm bến đỗ,
Hoàng Lăng mưa tối, Mã Ngôi đài.
Lối đi trong Daitokuji
10) Đi tìm hiện thực giữa hư cấu:
Giữa mê và ngộ, Ikkyuu đứng ở đâu? Ông có thật là kẻ dâm ô hay chỉ là một vị bồ tát biết “thao hối” (ẩn dấu hào quang) như từng bày tỏ ra trong bài thơ “ La Hán du dâm phường đồ nhị thủ” với những câu: La Hán xuất trần vô thức tình, Dâm phường du hí dã đa tình (bài 254) hay Xuất trần La Hán viễn Phật địa, Nhất nhập dâm phường phát đại trí (bài 255). Cũng vậy khi bị các lão túc đồng môn chỉ trích về tội phạm dâm và thực nhục, ông đã làm một bài kệ thị chúng như sau:
Kệ thị chúng (giả đề)
Vị nhân thuyết pháp thị hư danh,
Tục hán tăng hình hà tự sinh.
Lão túc trung ngôn nhược nghịch nhĩ,
Tạc phi kim thị ngã phàm tình.
Kệ răn học trò
Thuyết pháp người ư? chuyện rỗng tuênh,
Phân sao khách tục với tăng hình.
Lão nạp lời ngay nên điếc ráy.
Nói nhăng nói cuội cũng thường tình.
Đại Đăng kỵ túc kỵ dĩ tiền đối mỹ nhân
Túc kỵ chi khai sơn phúng kinh,
Huynh huynh nghịch nhĩ chúng tăng thanh.
Vân vũ phong lưu sự chung hậu,
Mộng Khuê tư sự tiếu Từ Minh.
Trước mỹ nhân khi túc trực ngày kỵ của Đại Đăng
Đêm trực giỗ thầy nghe tụng kinh,
Chúng tăng inh ỏi ngứa tai mình.
Mây mưa tớ cứ vầy xong cuộc,
Thì thầm bên gối, giễu Từ Minh
Năm 1436, nhằm ngày kỵ 100 năm của Đại Đăng quốc sư. Trong đêm cùng đồng đạo thức trắng để tưởng nhớ đến bậc tôn sư, giữa khi chúng tăng tụng niệm inh ỏi thì Ikyuu (Mộng Khuê) đi ra một chỗ và giao hoan với mỹ nhân, xong việc rồi lại thì thầm cười cợt với nàng về chuyện anh chàng Từ Minh. Bên trên cũng đã nhắc đến chuyện Từ Minh đàn đúm với Phương Hội. Vậy Từ Minh là ai?
Người này thực ra là Từ Minh Sở Viên ( 968-1039), cao tăng đời thứ 6 dòng Lâm Tế.
Tương truyền, Từ Minh đã kéo đệ tử là Dương Kỳ Phương Hội (992-1049), Lâm Tế đời thứ 7, ra một con đường hẻm (hiệp lộ, ám chỉ nhà thổ) để truyền “chính pháp”. Ngoài ra Từ Minh còn có một câu chuyện ô danh khác chép trong Gia Thái Phổ Đăng Lục là đã nuôi một “bà tử” ở gần chùa, dan díu với bà ta, có lần Dương Kỳ phải đi gọi về. Trong bài thơ này, mới nhìn qua thì thấy Ikkyuu xem hành động của Từ Minh và Dương Kỳ như “đồng tính luyến ái” và riêng ở đây, chính Ikkyuu đang làm một việc đồi bại là ngủ với gái ngay giữa ngày giỗ của đại sư cũng như Từ Minh háo sắc, dâm ô với bà tử[25].
Thế nhưng, đây là ngôn ngữ quái dị của nhà thiền. Giải thích sâu sắc hơn thì biết hai thầy trò Từ Minh và Phương Hội có thể đang “giáo ngoại biệt truyền” tức thầy truyền thụ đạo pháp cho trò không thông qua sách vở kinh kệ, còn “bà tử” kia không ai khác hơn là người mẹ già mà lúc mới xuất gia, Từ Minh vẫn còn lo lắng đến cho nên không biết làm cách nào hơn là lén chùa đi phụng dưỡng. Mặt khác, “mỹ nhân” mà Ikkyuu đang “vân vũ phong lưu” cũng được dùng để chỉ Đại Đăng, vị thầy lỗi lạc. Trong văn chương cổ điển Trung Quốc, mỹ nhân là nhà vua, là người hiền chứ không hẳn là gái đẹp (Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương, Khuất Nguyên). Có thể (có thể thôi) Ikkyuu tự phụ, cho mình mới là người hiểu được đạo pháp của đại sư, có thể trao đổi một cách riêng tư (tư ngữ) niềm vui đạo với ngài, trong khi cười cợt (tiếu) chúng tăng ồn ào và cả Từ Minh đều…chưa đủ trình độ.
11) Thi pháp ẩn dụ của Nhất Hưu:
Trong thi học (poetics) của Ikkyuu, cũng như bao nhà thơ cổ điển, ông hay tìm phương pháp ẩn dụ (allusion), nghĩa là để nói một điều nào đó, sẽ không nói một cách trực tiếp mà nói gián tiếp qua một điều khác. Trước tiên ẩn dụ có một hiệu quả trang trí (decorous effect) như mọi hình thức ngôn ngữ lễ độ (polite language) khác nhưng đồng thời nó cũng giúp cho ta tiết kiệm chữ nghĩa (saving effect) vì người đọc đã phải chuẩn bị về mặt kiến thức (conventional understanding between the poet and the reader). Lý do khác nữa là nếu khai triển ẩn dụ ra thành từng chi tiết, nó sẽ dài hơn ngôn ngữ ngày thường và đánh mất yếu tố thẩm mỹ nội tại. Một điều khác nữa là ẩn dụ sẽ làm độc giả mất thăng bằng. Anh ta phải xét lại những cảm xúc của mình trước khi đánh giá câu thơ hay câu văn. Nhất là khi ẩn dụ đưa vào trong câu một yếu tố có tính mâu thuẫn phá vỡ hệ thống qui chiếu sẵn có (the established system of reference).
Tất cả những điều vừa nói qua thuật ngữ tiếng Anh đã được trình bày trong tác phẩm The Crazy Cloud Anthology và cũng là luận văn tiến sĩ của Sonja Artnzen.
Bài Mai tử thục sau đây cũng vậy Người đọc trước hết phải hiểu cách nói ví von:
a) Quả mai ý nói Đại Mai Pháp Thường, một môn đệ của Mã Tổ.
b) Đại Mai Sơn là tên gọi hòn núi mà ẩn giả Mai Phúc ngày xưa từng sống.
c) Mai chín nói ý đạo đã tới lúc chín muồi, đã giác ngộ.
Mai tử thục
Thục xứ niên lai do vị vương,
Ngôn trung hữu vị thục năng thường.
Nhân ban sơ kiến Đại Mai Lão,
Sơ vũ đạm yên thanh dĩ hoàng.
Quả mai đã chín
Mai chín ngày nao vị chửa quên,
Trong lời có vị chín cơ duyên.
Đốm sinh mới thấy mai già tới,
Theo khói mưa thưa, sắc ngả vàng
Hình thức ẩn dụ thứ nhất và là ẩn dụ chính này, xin tạm gọi là ẩn dụ thiền ngữ nghĩa là những ẩn dụ có nguồn gốc nội điển (kinh kệ, ngữ lục).
Học trò Mã Tổ có 800 người mà chỉ có 386 người được biết tên.Theo Truyền Đăng Lục, nghe thầy dạy giáo lý “Tức tâm tức Phật” mà một đời đem câu nói đó vào trong núi nghiền ngẫm lại chỉ có Pháp Thường. Nhân ở Đại Mai Sơn (theo tên ẩn giả đời Hán là Mai Phúc) nên mang danh hiệu Đại Mai Pháp Thường. Ông tu hành bất kể năm tháng, khi được hỏi tu được mấy năm rồi, ông chỉ trả lời đã thấy thời gian qua đi theo mấy lần màu núi xanh ngả vàng. Sau được biết Mã Tổ có đổi cách giải thích đạo pháp mới (thành “Phi tâm phi Phật”) ngược lại với trước nhưng Đại Mai vẫn khăng khăng giữ chủ trương cũ không lay chuyển, còn mắng lại Mã Tổ là đồ tráo trở. Mã Tổ biết được chẳng những không giận còn khen rằng “Quả mai nay đã chín!” vì thấy người học trò là Đại Mai bây giờ đủ bản lĩnh, không còn chú trọng về hình thức diễn đạt của đạo pháp nữa[26].
Cận đại cửu tham
Cận đại cửu tham học đắc tăng,
Ngữ ngôn tam muội hoán vi năng.
Vô năng hữu vị Cuồng Vân ốc,
Chiết cước đang trung phạn nhất thăng.
Về những tăng sĩ chăm học đời nay
Mấy thầy tu mới học chăm sao,
Nói giỏi cho nên đạo tự hào.
Cuồng Vân tài mọn nhưng đầy vị,
Nấu cơm bếp sứt cũng ngon dào.
Bài thơ nói trên, ba câu đầu viết theo lối trực tiếp, có thể nói là giản dị dễ hiểu. Sang đến câu thứ tư thì mới nhìn qua, ta tưởng như Ikkyuu bày tỏ sự tự tin của mình trong sự tu học dù sống giữa cảnh nghèo. Thực ra, câu ấy làm hàm chứa một điển cố thiền môn (khác với điển cố văn học thông thường). Đó là lời kệ của Quốc sư Đại Đăng thị chúng trước khi chết: Nếu có một kẻ nào hành thiền đúng đắn cho dù phải nấu cơm rau mà ăn trong một cái nồi khập khiểng (đúng ra “đang” có nghĩa là cái xanh) thì kẻ đó có thể nhìn ta mắt trong mắt”. Như vậy thì “Chiết cước đang trung phạn nhất thăng” không còn là một câu nói về cảnh nghèo của mình nhưng là một câu nói có nghĩa bóng đầy tự hào: “Chính ta mới đi đúng truyền thống tu hành đạm bạc nghiêm cẩn của tôn sư Đại Đăng chứ không phải các anh lắm mồm, những kẻ hiện đang nắm quyền điều khiển chùa Daitokuji”.
La Hán cúc
Trà khát hoàng hoa thu sắc thâm,
Đông ly phong lộ xuất trần tâm.
Thiên thai ngũ bách thần thông lực,
Vị nhập Uyên Minh nhất phiến ngâm.
Cúc La Hán
Đậm màu hoàng cúc, khách thu tâm.,
Dậu đông sương gió thoát mùi trần.
Năm trăm La Hán Thiên Thai ấy,
Chẳng sánh ông Đào một khúc ngâm.
Ẩn dụ ở đây là màu hoa cúc vàng sẩm màu giống như cà sa của tăng sĩ. Đời Đông Tấn, Ngũ Liễu tiên sinh Đào Uyên Minh (365-427) đã từ chức huyện lệnh đất Bành Trạch để về quê hương di dưỡng tính tình (xem Quy khứ lai từ). Ông nổi tiếng là người yêu hoa cúc. Thái cúc đông ly hạ, Du nhiên kiến Nam sơn (Hái cúc dưới giậu đông, Thơ thới nhìn núi Nam) là hình ảnh thoát tục của ông mà theo Ikkyuu, một cử chỉ nhỏ có đạo lực hơn cả sức thần thông của năm trăm La Hán trên chốn Thiên Thai. Qua đây, có lẽ Ikkyuu có ý trách cứ những người học Phật tiếng là đạt đến chỗ giác ngộ (A La Hán) nhưng trên thực tế vẫn còn chưa đủ nội lực xuất trần tâm, phải mượn giác quan (tiếng trúc hoa đào) để hiểu đạo nghĩa. Phải chăng họ chưa vứt bỏ hết bụi bặm cuộc đời lại phiá sau, kém xa một người không phải tu sĩ Phật giáo như Đào Uyên Minh, tự nhiên như không mà đã có cái tâm cảnh đại nhàn của thiền gia[27]?
Không trực tiếp như thế, trong bài Khiết tửu dưới đây, ẩn dụ lại gián tiếp (indirect) hơn và có tính cách đối nghịch (dialectic).
Khiết tửu (giả đề)
Túy lý chúng nhân nại tửu trường,
Tỉnh thời chi tận xuyết tào khang.
Tương nam lưu thủy Hoài Sa oán,
Dẫn đắc Cuồng Vân tiếu nhất trường.
Uống rượu
Say rượu, ai người sợ rượu say,
Tỉnh ra lại nhấp bã hèm đây.
Tương Nam oán hận thân vùi cát,
Cuồng khách cười vang, mặc xác thầy.
Nếu như trong bài Mai tử thục tên của Đại Mai được nhắc đến trong câu thứ ba, trong bài La Hán cúc tên Đào Uyên Minh được nhắc đến trong câu thứ tư thì Khuất Nguyên, nhân vật chính của Khiết tửu, không được nói tới trực tiếp mà chỉ là gián tiếp qua những yếu tố từ ngữ phụ thuộc như Tương nam, Hoài sa oán. Hai nữa, trái với điều ta nghĩ, Cuồng Vân Tử đã tỏ ra cảm thương thực sự chứ không khinh bạc đối với con người ôm một hận lòng vì bị phóng trục, đến nỗi tự trầm ở sông Mịch La. Tao khang là bã rượu, ý nói rượu đục. Ikkyuu có ý bảo Khuất Nguyên dù không muốn sống đục nhưng đã là rượu thì phải có bã hèm, như sông phải có cát, chúng giống như bản thể. Đã khó lòng tránh khỏi ảnh hưởng ô uế, cớ sao vùi thân trong sóng nước làm chi. Do đó, ông muốn “cười một trận” (tiếu nhất trường), tuy rằng đây chỉ là cách nói phản nghĩa để tăng cường độ diễn đạt.
Văn thanh ngộ đạo
Kích trúc nhất triêu vong sở tri,
Văn chung ngũ dạ tuyệt đa nghi.
Cổ nhân lập địa giai thành Phật,
Uyên Minh đoan đích độc tần mi.
Nghe tiếng mà ngộ đạo
Sáng nghe tiếng trúc quên tri thức,
Chuông vọng năm canh dứt mối ngờ.
Người xưa đứng đó cũng thành Phật,
Để lão Uyên Minh mặt ngẩn ngơ.
Chuyện “kích trúc” có chép trong Truyền Đăng Lục, truyện “văn chung” có chép trong Bích Nham Lục. Hai điển cố đó được dùng để chứng minh việc “cổ nhân thành Phật tại chỗ” nhưng những việc hàm hồ như thế không sao qua mặt được Đào Uyên Minh. Ikkyuu ở đây muốn nói gì ? Phải chăng ông chê Uyên Minh có thái độ không tin tưởng như thế làm sao thành Phật được? Hay ông tán tụng Uyên Minh chính là một vị Phật vì không muốn thành Phật? Hoặc giả, ông bảo cả hai trường hợp “tin” và “ngờ” của ba người đều đứng ngoài vòng đạo lý. Với câu thứ 4 của bài thơ Uyên Minh đoan đích độc tần mi với hai chữ “đoan đích” (just, correctly, rightly so) rất khó dịch. Ikkyuu có thể làm cho độc giả ngạc nhiên vì biết đâu họ chẳng đã đoán lầm kết luận.
Thập mã xí tu ban trúc
Uy vu Lạn Tàn cựu thoại đề,
Bất cầu danh lợi dã phong lưu.
Tương tư vô khích thử quân vũ,
Phất lệ độc ngâm Tương thủy thu.
Nhặt phân ngựa để bón trúc
Chuyện cũ Lãn Tàn lùi khoai lang,
Không cầu danh lợi, thật cao sang
Thu này ngóng mãi ơn mưa móc,
Gạt lệ, sông Tương buồn thở than.
Bích Nham Lục có chép chuyện một hòa thượng hết sức lười biếng là Minh Toản biệt hiệu Lãn Tàn, người sống vào thời Đường Đức Tông (giữa thế kỷ thứ 8) trong một hang đá ở Hành Sơn. Lãn có nghĩa là lười. Khi sứ giả nhà vua đến mời ông ra tham vấn, ông đang lùi khoai lang trong đống chất đốt bằng phân trâu để khô, bị khói bay mờ làm chảy nước mắt nước mũi mà vẫn không thèm quệt.[28] Sứ giả không thuyết phục được phải ra về tay không.
Việc đem kết hợp “trúc” và “mã xí” và nhân đó với kỳ tăng Lãn Tàn là để nói đến cuộc sống giản dị cao khiết và tinh thần lao động của người tu thiền. Tương tư và Tương thủy ám chỉ hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh, sau khi chết đã để lại những ngấn lệ trên lóng trúc sông Tương. Qua cách nói gián tiếp bằng ẩn dụ, Ikkyuu đã có thể trình bày tâm sự cá nhân. Tuy ngôi thứ nhất không hề có mặt trong thơ nhưng có nhiều xác xuất cho thấy nhà thơ muốn nói “Ta yêu cuộc sống tự nhiên bên những vật tầm thường (phân ngựa, lóng trúc) giống như Lãn Tàn khi ông dùng phân trâu lùi khoai, (hay như Vương Hi Chi không thể sống một ngày mà thiếu trúc vì chữ “quân” cũng có thể dùng để ám chỉ trúc như chép trong Tấn thư, truyện về Vương), như nhị phi tự trầm trên sông Tương để lại ngấn lệ trên thân trúc”. Câu thứ tư hàm ý “Ta cũng mang tâm sự cô đơn như hai bà phi tương tư vua Thuấn trong những ngày cuối đời hôm nay”. Như trên, nhờ ẩn dụ, bài thơ tả cảnh tả tình đã biến thành những vần thuật hoài.
Nam sơn khởi vân bắc sơn dạ vũ
Tiểu cô duyên để giá Bành lang,
Vân vũ kim tiêu mộng nhất trường.
Triêu tại Thiên Thai mộ Nam Nhạc,
Bất tri hà xứ kiến Thiều Dương
Núi Nam dậy mây, mưa trên núi Bắc
Tiểu cô duyên phận với Bành lang,
Vân vũ đêm nay, mộng lại càng.
Nhưng sớm Thiên Thai tối Nam Nhạc,
Hỏi sao thấy được chốn Thiều Dương
Tiểu Cô (Cô dâu bé nhỏ) và Bành lang (chàng rễ họ Bành) thực ra không phải là hai con người. Tiểu Cô là tên một hòn đảo nhỏ trên sông Dương Tử, Bành Lang lại là tên một ghềnh đá lớn phiá nam sông và ở một vị trí thật xa nó. Cũng như vậy, buổi sáng núi Nam dậy mây mà đến đêm núi Bắc lại có mưa (một câu nói của Vân Môn). Những chuyện hầu như không có gì dính líu với nhau vẫn có thể kết hợp được nhu việc tượng Phật có thể nói chuyện với cây cột trong một công án khác. Dĩ nhiên đây là một sự kết hợp có tính sắc tình (vân vũ, triêu tại, mộ tại… đều là chữ của Cao Đường phú tả cảnh giao hoan giữa vua Sở và thần nữ núi Vu).Thiên Thai (nơi tu của Trí Khải, 538-597) và Nam Nhạc (nơi tu của Huệ Tư, thầy ông, 515-577) đều là thánh địa của Thiền Tông. Hirano xem Triêu tại Thiên Thai mộ Nam Nhạc là câu nói thấy trong Hư Đường Lục nhưng Yanagida nghĩ rằng nó lấy ý từ một lời của Vân Môn. Dù sao, nói chung, cả hai vẫn ám chỉ thái độ của một nhà tu hành tự cao về trình độ giác ngộ của mình hay dựa dẫm vào sức mạnh của một bậc đại giác.
Ẳn dụ của bài thơ này có thể đến một lượt từ 2 công án: một của Đại Đăng và một của Vân Môn Văn Yển (864-949), khai tổ phái Vân Môn bên Trung Quốc. Đại Đăng là tôn sư trong hệ phái của Ikkyuu và Đại Đăng tam chuyển ngữ của ông là một đề tài tu học của Ikkyuu, trong đó có câu hỏi như: “Tại sao cái cột trần sáng chiều cứ mãi mệt nhoài vì chạy qua chạy lại”. Cây cột chạy qua chạy lại ở đây cũng có thể giải thích theo nghĩa sắc tình (erotic). Tương truyền Đại Đăng đã giác ngộ nhờ một công án của Vân Môn và được thầy của mình đánh giá là là Vân Môn tái sinh. Ngoài ra, Thiều Dương (Thiều châu) là một trong những biệt hiệu của Vân Môn.
Có thể hiểu Ikkyuu muốn nhắc cho chúng ta rằng giữa phàm tục và giác ngộ – những cái xa lạ với nhau – vốn có một tương quan khắng khít cho dù không dễ dàng nhận ra, như tương quan giữa thầy Vân Môn và trò Đại Đăng, giữa Thiên Thai và Nam Nhạc, giữa Tiểu Cô và Bành Lang… Thế nhưng qua lối ẩn dụ đa dạng đó, Ikkyuu cũng cố tình tìm cách che dấu không cho độc giả nắm được bản ý của mình. Vừa mở cánh cửa ra, ông đã đóng sập nó lại.
Từ thế thi
Tu Di nam bạn
Duy hội ngã Thiền.
Hư Đường lai dã,
Bất trị bán tiền.
Bài kệ lúc lâm chung
Bên kia thế giới
Ai hiểu Thiền mình.
Hư Đường dù tới,
Chẳng đáng đồng trinh.
Đây cũng là một kỹ thuật từ hoa theo lối dùng phản nghĩa để thậm xưng.Tưởng là một câu nói ngạo nghễ, hàm ý dè bĩu, nhưng thực ra đó là một lời tán tụng không có gì cao vời hơn đối với sự nghiệp của tôn sư Hư Đường Trí Ngu mà ông mến yêu, người giữ được một Thiền phong chân chính Ikkyuu những muốn học tập.
Cũng nói về phương pháp tu từ, chúng ta thấy Ikkyuu đã vay mượn rất nhiều cổ văn (Lục Triều, Đường, Tống), nhất là thơ Đường. Những câu thơ ấy đã trở thành thiền cú, áp dụng vào cả những câu Haiku có thiền vị đời sau. Đó là hình thức ẩn dụ xin gọi là ẩn dụ ngoại điển vì nó không đến từ các tác phẩm trong làng thiền.
Và như chúng ta đều thấy, Ikkyuu đã dùng hai thứ ẩn dụ nội điển và ngoại điển hoặc riêng rẽ, hoặc kết hợp chúng với nhau.
Ở Nhật, việc “mượn đỡ” văn chương người khác không hề là một hình thức đạo văn nhưng là một cách tôn vinh tiền nhân. Các nhà thơ Waka cũng vậy. Họ đã vay mượn các honka (bài thơ gốc) từ Man.yôshuu (Vạn Diệp Tập, khoảng 759). Wakan Rôeishuu (Hòa Hán lãng vịnh tập, 1012) là chứng cớ hùng hồn của việc Nhật hóa thơ Trung Quốc.
Chúng ta có thể đưa ra nhiều ví dụ. Lúc thì Ikkyuu chỉ dùng một hai chữ, lúc thì câu, đôi khi dùng cả nguyên câu hay tóm tắt nhiều câu thành một:
1) Một hai chữ:
– Hành lộ nan nan tri kỳ cơ (Thoái Bình Nguyên phó Nại Lương). Nguyên văn Hành lộ nan, tựa một bài thơ của Lý Bạch)
– Mã Ngôi thanh chủng cựu tinh hồn (Từ Dương tháp). Nguyên văn thơ Lý Nguyên và Viên Trạch: Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn).
– Nhất triêu phân quyết lệ ngân tân (Thiếp họa). Nguyên văn Lý Bạch trong Oán tình: Đản lệ ngân thấp kiến, Bất tri tâm hận thùy).
– Nhất phiến phi hoa kỷ đoạn trường (Lục đại mai hoa, kỳ nhị). Nguyên văn thơ Đỗ Phủ trong Khúc giang túy hậu: Nhất phiên phi hoa giảm khước xuân).
2) Nguyên câu:
– Nhất trường xuân mộng bất phân minh (Xuân y túc hoa). Nguyên văn của Trương Đỉnh trong Ký nhân).
– Nhiệm tha minh nguyệt há Tây lâu (Đại phong hồng thủy). Nguyên văn của Lý Ích trong Tả tình).
– Khúc chung giang thượng sổ phong thanh (Triệu Châu tam chuyển ngữ). Nguyên văn của Tiền Khởi làm ở đầm Vân Mộng).
3) Tóm tắt hai hay nhiều câu thành một:
– Giang hải đa niên thoa lạp ông (Đề Như Ý Am hiệu cát mạt). Nguyên văn của Liễu Tôn Nguyên trong Giang Tuyết: Cô châu thoa lạp ông, Độc điếu hàn giang tuyết.
– Trường địch mộ lâu thùy thị khúc (Triệu Châu tam chuyển ngữ). Nguyên văn của Triệu Hổ trong Trường An thu tịch: Tàn tinh sổ điểm nhạn hoành tái, Trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu.
– Phu châu kim dạ nguyệt trầm trầm ((Mao lư, kỳ tứ). Nguyên văn Nguyệt dạ của Đổ Phủ: Kim dạ Phu châu nguyệt. Khuê trung chỉ độc khan.
– Phì tự Ngọc Hoàn sấu Phi Yến (Ký cận thị mỹ nữ). Nguyên văn Tô Đông Pha trong Tôn Tân lão cầu Mặc Diệu đình: Đoản trường phì sấu các năng hữu, Ngọc Hoàn Phi Yến thùy cảm tăng.
Ngoài ra, cách dùng chữ của Ikkyuu cũng gây chú ý. Một chữ Ngâm吟 chẳng hạn, ông có thể dùng với nhiều trường hợp cá biệt. Trong các từ ngâm trượng, túy ngâm, lâu thượng ngâm, ngâm thân, sầu ngâm, ngâm hành, nhàn ngâm, mạn ngâm, trầm ngâm, độc ngâm, không ngâm, ba thượng ngâm, ngâm hứng… tùy theo ngữ cảnh, mang ý nghĩa khác nhau nhưng nói chung, khó dịch được cho thỏa đáng.
Mở thêm một dấu ngoặc. Ikkyuu lại có vẻ có biệt nhãn với Đỗ Mục, một nhà thơ ông ngưỡng mộ vì phong cách tiêu sái, tâm tình phẫn khái và cũng vì Đỗ tài hoa rất mực. Đỗ Mục nổi tiếng là một “toán bác sĩ” vì dùng nhiều con số trong thơ (Thiên lý oanh đề lục ánh hồng / Nam triều tứ bách bát thập tự / Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa / Thập niên nhất giác Dương châu mộng). Ikkyuu cũng thế (Đệ ngũ kiều biên nhị thập niên / Tú cú hàn nga ngũ thập niên / Vạn Niên thất bách cao tăng lệnh / Ngũ thập niên lai thoa lạp khách / Phong xuy bất động ngũ vân nguyệt. Tuyết áp nan thôi vạn tuyết tùng / Chẫm thượng thập niên vô dạ vũ. Nguyệt trầm Trường Lạc ngũ canh chung / Tam thập niên lai nhất cá tăng / Thiên xích ti luân khởi đắc thu. Nhất thiên phong nguyệt nhất giang chu) vv…
IV) Kết luận:
Chúng ta đã cùng nhau làm một vòng chân trời Kyôunshuu dù chỉ với một số lượng thơ dịch nhỏ bé so với toàn phần sự nghiệp thi ca của thi tăng Ikkyuu (trên 1.000 bài). Đây chỉ là bước đầu trong hành trình của một con người cầu học, mong sẽ có cơ duyên nối tiếp[29].
Những người “chuyên trị” Kyôunshuu như Yanagida Seizan và Katô Shuuichi cho biết khi nghiên cứu tác phẩm, các ông đã gặp một số khó khăn đặc biệt. Trước tiên, các bài thơ ghi rõ về niên đại chỉ độ 20, phỏng đoán được niên đại là trường hợp của 50 bài khác. Kỳ dư đều không biết được viết ra thời gian nào và trong bối cảnh nào. Thứ đến, về mặt nội dung, quyển sách lại đầy mâu thuẫn. Có thể kể đến 4 loại mâu thuẫn khiến cho người ta không hiểu đâu là nhân cách đích thực của Ikkyuu:
1) Mâu thuẫn giữa nhà tu giác ngộ và ông sư phá giới.
2) Mâu thuẫn giữa con người tự tin về mình và con người biết tự phê.
3) Mâu thuẫn giữa con người hỷ xả và con người cố chấp độc miệng.
4) Mâu thuẫn của nhà tu Thiền Tông bị lôi cuốn bởi giáo lý Tịnh Độ.
Từ đó suy ra 5 khả năng:
1) Thơ Ikkyuu tự nó không có mục đích trình bày sự thực.
2) Thơ Ikkyuu chỉ ròng là những tỉ dụ với mục đích giáo hoá chúng sinh.
3) Thơ Ikkyuu không đặt chung chính giác với giới luật vào cùng một phạm trù.
4) Thơ Ikkyuu khiêu chiến cái giáo đoàn hủ bại bằng cách tự coi thường giới luật.
5) Thơ Ikkyuu chứng tỏ rằng ngay một cao tăng cũng là con người nên có nhược điểm.
Ý thức được những khó khăn nói trên và chấp nhận một số tiền đề như trên rồi, chúng ta mới có thể cùng nhau đi vào thế giới của Kyôunshuu vậy. Và dĩ nhiên phải biết thêm rằng Kyôunshuu chỉ trình bày được một phần nhân cách đa dạng của nhà sư cổ quái và cũng là nhà văn hóa lớn Nhật Bản. Từ soạn giả tuồng Nô Konparu Zenchiku, các nhà thơ renga như Sôchô, Sôki, trà sư Murata Jukô cho đến họa gia Sôami, Bokusai, Bokkei và Soga Jasoku đều tôn quí ông. Nổi tiếng như Sen no Rikyuu cũng chịu ảnh hưởng. Thù Ân Am đã có thời đóng vai trò một salon littéraire. Thiền từ vai trò tôn giáo, với Ikkyuu, đã được thế tục hoá để trở thành văn hóa và nghệ thuật.
Dân chúng ở thành phố Sakai, nhất là giới kinh doanh, nhiệt tình ủng hộ ông từ lúc sống cho đến sau khi chết. Cũng phải nói Sakai là một thành phố tự do, trọng thương nghiệp, có một nền văn hóa bình dân. Những người ở đây không chấp nhận cái xã hội o ép của Gozan Jissetsu. Ikkyuu đã bày tỏ tình cảm của ông với những con người bình thường tứ anh con buôn, cô gái làng chơi, anh đóng dép, người đánh cá. Pháp ngữ của ông viết bằng chữ kana (kano hôgo) giản dị nên người quê mùa cũng đọc được. Mặt khác, phải nói là ảnh hưởng của Ikkyuu đã tồn tại lâu dài với thời gian. Mấy trăm năm sau ngày Ikkyuu mất rồi, trẻ em bây giờ vẫn say sưa thích thú đọc manga nói về ông.
Khi so sánh với Tây phương, học giả Katô Shuuichi trong bài tựa viết cho quyển sách của Sonja Arntzen đã xem Ikkyuu là tổ phụ của loại poètes maudits như Francois Villon (Pháp). Ông cho rằng ảnh tượng tình yêu trai gái trong thi ca của Ikkyuu chỉ là phương tiện cho ông tiếp xúc được với Tuyệt Đối trong tình yêu tôn giáo như trường hợp St John of the Cross (Tây Ban Nha). Giống John Donne (Anh), một chức sắc cao cấp trong hàng giáo phẩm, Ikkyuu vẫn phóng túng tung hoành nói về nhục thể dù khi đã trở thành người trụ trì ngôi chùa đẳng cấp là Daitokuji vào những năm cuối đời. Katô còn kết luận rằng những người như Ikkyuu và John Donne thì chẳng đợi gì đến khi có Freud mới hiểu được những chỗ sâu kín của lòng người.
Cho dù thơ Kyôunshuu có phản ánh hiện thực đi chăng nữa thì ta có thể nghĩ như Katô Shuuchi qua lời tựa tác phẩm Yanagida Seizan đã đưa ra kiến giải của Michel Foucault trong L’Histoire de la sexualité (Tính dục sử, Paris, 1976) khi ông bảo rằng: Đừng hỏi tác giả trên thực tế có hành động như thế không. Phải hỏi mục đích nào đã khiến ông ta đem vấn đề đó ra trình bày.
Các tôn giáo khi bàn đến tính dục thường có khuynh hướng bảo thủ hoặc chủ tâm tránh né. Một là ức chế, hai là thăng hoa chứ không dám trực diện. Thiền tông tiếng là phóng khoáng tự do cũng ít khi đế cập tới chủ đề đó. Hòa thượng Shido Munan (Chí Đạo Vô Nan, 1603-1676) thời Edo rất cảnh giác về quan hệ nam nữ của tăng chúng. Ông cho rằng sự tương giao giữa nam nữ là lẽ tự nhiên nhưng chỉ một khi mình đã giác ngộ, dẹp được cái tâm súc sanh.[30] Thế thì phải đợi đến bao giờ vì mấy ai dám cho mình là người giác ngộ! Trong bối cảnh xã hội như vậy và trước đó trên một thế kỷ, Kyôunshuu đã xuất hiện như một tảng đá lớn ném xuống mặt hồ tĩnh lặng. Ông có vẻ đủ tự tin về đạo tâm của mình để nói về nó một cách không che đậy.
Nhưng nếu ông thực sự đã làm những điều ông nói, chả lẽ triều đình lại đem tử y ban cho một kẻ huỵch toẹt nhận mình là sư hổ mang. Và dân chúng vùng Osaka-Sakai nữa, không lẽ có mắt như mù trước hành vi khiêu khích của một nhà tu đã ô danh thiền môn đến mức đó.
Chính ra khó thể nói Ikkyuu đã có ý muốn làm những chuyện sai lầm. Trong bức liễn với bút tích mà ông để lại ở am Trân Châu, có ghi: Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành諸悪莫作、衆善奉行. Điều đó chứng tỏ trong tâm hồn ông, nguyên tắc đạo đức chính vẫn là khuyến thiện trừng ác. Có điều quan niệm về thiện ác của ông rất rộng rãi, không theo cái nghĩa thường tình, một điểm chúng ta cần ghi nhớ. Trên bức liễn như thấy dưới đây, trong khi bên trên “chư ác” và “chúng thiện” được viết theo lối chữ khải chân phương thì phía dưới, mạc tác và phụng hành dần dần đá thảo bay bướm, tự do. Người ta bảo Ikkyuu đã vào với thiền bằng cánh cửa của Đại Đăng nhưng sau đó đã ra khỏi cửa của Đại Đăng là vì vậy.
Thủ bút (mặc tích) nói trên của Ikkyuu vốn có nguồn gốc từ cuộc đối thoại giữa nhà thơ Bạch Cư Dị và hòa thượng Đạo Lâm, còn gọi là Điểu Khòa (781-824) đời Đường[31]. Sư họ Phan, người Hàng Châu.Thụ pháp từ Kinh Sơn Quốc Nhất, ngồi tu trên một cành tùng ở Thái Vọng Sơn như làm tổ trên cây nên mới có tên là Điểu Khòa. Bạch Cư Dị, lúc đó làm Thái Thú trong vùng, có đến hỏi đạo thì ông khuyên nên theo nguyên tắc nói trên. Bạch phản ứng rằng điều này con nít mới lên 3 cũng biết nhưng Điểu Khòa nhấn mạnh: Chuyện con nít lên 3 cũng biết thì chưa chắc ông già sống đến 80 đã có thể thực hiện được. Tương truyền “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành.Tự tĩnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo” là câu trả lời của tôn giả A Nan cho người đến hỏi ông đâu là giáo lý của 7 đời cổ Phật trong quá khứ.
Thế mới biết, dù mang tâm không phân biệt nhưng Ikkyuu không hề rơi vào cái bẫy của “tà chính bất nhị” do một số người thò lò hai mặt, đánh lận con đen. Ông vẫn phân biệt thiện ác, khác với thiên kiến người ta có về ông.
Có người học thiền (Thanh Nguyên Duy Tín, pháp tự của Hối Đường Tổ Tâm) đã phát biểu: “Ba mươi năm trước đây, khi chưa tham thiền, lão tăng thấy núi là núi, sông là sông. Đến khi theo thầy tu học. lão mới thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Thế nhưng cuối cùng giác ngộ được chân như, không hiểu tại sao khi nhìn lại, lão thấy núi vẫn là núi , sông vẫn là sông”[32]. Duy Tín đi từ chỗ phân biệt sang đến trạng thái không phân biệt, để rốt cục, cuối con đường tu học, trở lại cái tâm phân biệt bình thường. Thế nhưng cái tâm bình thường đó đã được một lần tôi luyện.
Để tạm kết thúc, xin đọc với nhau bài thơ Ikkyuu vịnh Điểu Khòa:
Tán Điểu Khòa hòa thượng
Sào hàn thụ thượng lão thiền ông,
Tịch mịch thanh cao danh vị không.
Chư ác mạc tác thiện phụng hạnh,
Đại cơ tu tại túy ngâm trung.
Vịnh hòa thượng Điểu Khòa
Cành lạnh, thân chim, có lão ông,
Thanh cao, cô độc, chức danh không.
Tránh bao lối ác, chỉ hành thiện,
Ngâm loạn nhưng thiền cơ ở trong!
Bệnh viện Đại học Chiba 3/2014
Nguyễn Nam Trân
Tư Liệu Tham Khảo:
1) Akidzuki Ryômin, 2003, Ichinichi ichizen (Nhất nhật nhất thiền), Kôdansha xuất bản.
2) Akidzuki Ryômin, 2009, Kôan (Công Án), Chikuma Gakugei Bunko xuất bản, Tôkyô.
3) Arntzen, Sonja, 1986, Ikkyuu and The Crazy Cloud Anthology, University of Tokyo Press, the second editiơn in 1988.
4) Katô Shuuichi,Yanagida Seizan, 1978, Nihon no Zengoroku : Ikkyuu (XII). Nhật Bản (Thiền Ngữ Lục Tập 12: Ikkyuu), Kôdansha.
5) Kino Kazuyoshi, 1999, Meisô retsuden (Danh tăng liệt truyện), Quyển1. Kôdansha xuất bản và tái bản lần thứ 7 năm 2004. (Trang 163-214 nói về Ikkyuu).
6) Suzuki Daisetsu viết, Kitagawa Momo o dịch từ Anh ngữ, 1940, Zen to Nohon bunka (Thiền và văn hoá Nhật Bản), Iwanami Shinsho xuất bản, 1977, in lần thứ 37.
7) Umehara Takeshi, 2009, Nihon Bukkyô wo yuku (Theo chân Phật Giáo Nhật Bản), Asahi bunko xuất bản (Trang 251-260: Ikkyuu).
8) Uno, Naoto, Kanshi wo yomu (Đọc Hán thi), quyển 2, 10/2011-3/2012 (thời kỳ Kamakura đến Edo trung kỳ), NHK xuất bản, 2011.
9) Yamaori Tetsuo, 1987, Nihon Bukkyô shisô no genryuu (Nguồn cội tư tưởng Phật giáo Nhật Bản), Kôdansha gakujutsu bunko, (trang 221-306, Ikkyuu).
[1] Ví dụ Ikkyuu bắt cọp trong tranh, Ikkyuu cỡi trần phơi bụng (kinh điển) dưới nắng, Ikkyuu đút cơm cho tử y (pháp y màu tiá) ăn…
[2] Theo Vô Môn Quan, trong công án này, hòa thượng Động Sơn đòi đánh đòn một anh học trò đến tham vấn vì muốn tu thiền mà lại cứ đi lang bang khắp giang hồ, không biết dừng lại một chỗ để nghỉ ngơi tu tập. Xem Nhất nhật nhất thiền của Akidzuki Ryômin, thoại 356, trang. 353. “ Phóng nhữ tam đốn bổng”, Vô Môn Quan tắc 15. Độc giả Việt ngữ có thể tham khảo Nhất nhật nhất thiền qua bản dịch nhan đề “Mỗi ngày một câu chuyện thiền” của dịch giả Tàn Mộng Tử (nhà xuất bản Thuận Hóa, 2003).
[3] Unryuuin (Vân Long Viện) là nơi thờ 6 vị thiên hoàng (Lục Đại) thời Bắc Triều, trong số đó có Thiên hoàng Go Komatsu.
[4] Khát thực (喝食katsujiki) là chú tiểu lo việc cơm nước trong chùa.Tóc hãy còn để dài. Khi thành sa di ( sami) mới gọt tóc
[5] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin có thoại nói đến việc Đại Đăng bẻ gảy chân nhập thiền rồi chết ngồi trong khi Quan Sơn Huệ Huyền chết đứng dưới gốc cây lúc đang truyền y bát cho pháp tự của mình.
[6] Kỳ thực, giai đoạn này chỉ có 7 năm (xem Lịch Sử Thiền Tông Nhật Bản ) của Ibuki Atsushi, Nguyễn Nam Trân biên dịch. Tư liệu mạng. Có thể hiểu 20 năm như quãng đời tu tập mà thôi.
[7] Hình ảnh tự do phóng túng của Ngư phụ (Lão chài), người đã cảnh cáo Khuất Nguyên.
[8] Của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (1139-1209) , thiền sư nhà Tống dòng Dương Kỳ. Xin tham khảo Vô Môn Quan, tắc 20 Đại lực lượng nhân, bản dịch Nguyễn Nam Trân, tư liệu mạng.
[9] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 193, cùng nhan đề, trang 210.
[10] Xem phần Thấy trâu (Kiến Ngưu) trong Tìm hiểu nội dung và xuất xứ Thập Ngưu Đồ do Nguyễn Nam Trân dịch Yanagida Seizan. Tư liệu trên mạng.
[11] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 152, “Văn thanh ngộ đạo”, trang 173.
[12] Hoa Nuzuna, một loài hoa dại có hình giống quả tim.
[13] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 144, trang 343. “Bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả”. Vô Môn Quan tắc số 2.
[14] Tứ liệu giản là cơ sở lý luận của dòng Lâm Tế với những mệnh đề đối lập để trình bày chân lý dưới hình thức một ma trận (matrix) Nó có 4 yếu tố: nhân, cảnh, đoạt và bất đoạt. Muốn hiểu thêm xin xem các bản Việt dịch Lâm Tế Lục hay Lịch sử Thiền Tông Trung Quốc của Ibuki Atsuki, Nguyễn Nam Trân dịch có trên mạng.
[15] Chi tiết xem Vô Môn Quan của Triệu Châu. Tắc 41 Đạt Ma an tâm. Tích Huệ Khả đoạn tý.
[16] Chi tiết xem Vô Môn Quan của Triệu Châu. Tắc 23. Bất tư thiện ác. Tích Minh thượng tọa tranh y bát.
[17] Điểm mạnh của Thiền phương Bắc là kinh điển, của Thiền phương Nam là nghị luận, không thể thiếu một.
[18] Tuy thông thường, mai là hoa để chỉ đàn bà (mai thê hạc tử) như thơ Lâm Bô (Lâm Hòa Tĩnh) đời Tống. Thế nhưng, trong văn mạch này, có thể Ikkyuu đã dùng cành mai để chỉ đàn ông (ngọc hành) để đối chiếu với thủy tiên (âm hộ). Lăng ba tiên tử là một tên khác của hoa thủy tiên.
[19] Hai chữ Hán khó đọc, tạm phiên âm như thế. Ý nói vô lại, hoang đàng nhưng có sức thu hút của một người đàn ông con trai (theo Yanagida Seizan).
[20] Nhất nhật nhất thiền của Akidzuki Ryômin, thoại 89 (Sơn tiền đàn việt gia, Tác nhất đầu thủy cổ ngưu khứ, trang 113) có nói đến chuyện kiếp sau sinh ra thành con trâu nằm trước nhà đàn việt bên kia núi nhưng hai nhân vật chính trong cuộc đối thoại là Nam Tuyền và học trò ông là Triệu Châu. Lại có chuyện Tuyết Phong Nghĩa Tồn cũng tự xưng mình là thân trâu. Về Quy Sơn lại là một câu chuyện khác.
[21] Nhất nhật nhất thiền của Akiszuki Ryômin, thoại 361 (trang 357). Tắc này thuyết về “tự tha bất nhị”, “sinh tử nhất như”, “tự tha giao tham tự tại”.
[22] Tsurezuregusa, bản dịch Nguyễn Nam Trân (Buồn buồn phóng bút) có nói đến trò chơi của các chủ tiểu chùa Ninnaji (Nhân Hòa Tự). Tư liệu trên mạng.
[23] Ihara Saikaki, Kôshoku ichidai otoko (Một đời trai hiếu sắc), trong đó nhân vật hư cấu Yonosuke cho biết đã có quan hệ với hàng nghìn nam nữ.
[24] Bushukô hiwa (Vũ châu công bí thoại) Chuyện kín về lãnh chúa Musashi.Quan hệ giữa các vũ tướng và bọn tiểu đồng hầu cận đã được nêu lên.
[25] Trong sách vở, Từ Minh Sở Viên là một người tu hành nghiêm ngặt. Có giai thoại ông lấy dao đâm vào đùi để có thể tập trung tinh thần khi tọa thiền. Thế nhưng dưới cách nhìn của Ikkyuu ở đây thì Từ Minh thật không ra gì cả.
[26] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 349, trang 347. “Tức tâm tức Phật”. Vô Môn Quan tắc 30.
[27] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 33, trang 62. “Thái cúc đông ly hạ. Du nhiên kiến Nam sơn” trong Uyên Minh thi tập.
[28] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin, thoại 120, trang 141.. “Ngã khởi hữu công phu vị tục nhân phất để da” (Ta đâu biết cách chùi nước mắt cho kẻ tục). Bích Nham Lục tắc 34.
[29] Chúng tôi xin lỗi đã không “cấy” được nguyên văn chữ Hán vào chùm thơ dịch của mình để nâng cao độ tin cậy. Lý do là trình độ vi tính thấp và không có thời giờ. Thêm nỗi có nhiều chữ Hán cổ. Ngoài ra các bài dịch thường là thoát dịch chứ không câu nệ việc dịch từng chữ vì thơ Nhất Hưu đa nghĩa, khó nắm trọn.
[30] Chi Đạo Vô Nan thiền sư tập, dẫn bởi Akidzuki Ryômin, Nhất nhật nhất thiền, thoại 28.
[31] Nhất nhật nhất thiền của Akidzuki Ryômin, thoại 30, trang 58, “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành” là chữ được nhắc đến trong Thất Phật thông giới kệ.
[32] Nhất nhật nhất thiền của Akidzuki Ryômin, thoại 325, trang 325-326 “Niêm khởi trúc bề, hành sát hoạt lệnh. Bối xúc giao trì. Phật tổ khất mệnh”..
* Nguyễn Nam Trân: Một trong những bút hiệu của Đào Hữu Dũng, sinh năm 1945 gần Đà Lạt. Nguyên quán Hương Sơn, Hà Tĩnh. Theo học Chu Văn An (1960~1963) và Đại Học Sư Phạm Sài Gòn trước khi đến Nhật năm 1965. Tốt nghiệp Đại Học Đông Kinh (University of Tokyo) và Đại Học Paris (Pantheon-Sorbonne). Tiến sĩ khoa học truyền thông. Giáo sư đại học. Hiện sống ở Tokyo và Paris. Nguồn: http://www.erct.com/
Thảo luận về post