Ở ngôi chùa Hòe Nhai có bức tượng một vị Phật ngồi trên lưng vua – đây là bức tượng độc nhất vô nhị không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Tương truyền vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối với cách cư xử sai lầm với đạo Phật.
Chùa Hòe Nhai (hay còn gọi là Hồng Phúc tự, nằm ở số 19 phố Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội) tọa lạc trên khuôn viên rộng 3000 m2 gồm 2 tòa bái đường 5 gian, chính điện 3 gian và nhà tổ 7 gian tạo thành hình chữ “Công” sân chùa còn có 3 ngọn tháp cao ba tầng. Là ngôi chùa cổ, tương truyền có từ đời nhà Lý và là chốn tổ của phái Tào Động, một Thiền phái lớn của Phật giáo Việt Nam.
Tượng Phật ngồi lưng vua hay còn có tên gọi khác là Vua sám hối. Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc của bức tượng bắt nguồn từ thời vua Lê Hy Tông (1663-1716), vị vua thứ 10 của nhà Lê trung hưng. Năm 1678, vua ra sắc lệnh đuổi hết tăng ni lên rừng, ai ngoan cố không rời khỏi kinh thành sẽ bị khép vào trọng tội và đem xử trảm khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh. Thiền sư Chân Dung Tông Diễn, Tổ thứ hai của thiền phái Tào Động Việt Nam, thấy vậy đã dâng lên vua một chiếc hộp nói là ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ ghi lại những điều lợi cho xã hội mà Phật giáo mang lại. Nội dung bên trong chủ yếu nói về việc “đời Lý, Trần các vua vì hết sức coi trọng đạo Phật mà quốc gia thịnh trị, khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia”.
Tương truyền sau khi đọc xong, nhà vua chợt bừng tỉnh, lập tức cho mời nhà sư vào triều để cúi mình tạ lỗi, thu hồi lại sắc lệnh cấm Phật giáo. Vua Lê Hy Tông hứa với thiền sư Tông Diễn rằng, ông sẽ sửa mình và cho người tạc bức tượng Phật ngồi lưng vua đặt trong chùa Hòe Nhai. Đây là pho tượng độc nhất vô nhị trong các tác phẩm điêu khắc của Phật giáo.
Dáng quỳ gối phủ phục sát mặt đất của tượng vua thể hiện một sự quy phục tuyệt đối. Đó là sự hối lỗi chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượng ép và do đó đây là một sự nhận lỗi, sửa sai chứ không phải là một sự trừng phạt.
Ngôi chùa có sáu lớp tượng Phật tại khu chính điện. Khu hậu Tổ còn có tượng Quan Âm tống tử.
Ở gian ngoài còn có tượng hộ pháp, Ngọc Hoàng cùng Nam Tào, Bắc Đẩu… như thường thấy ở các chùa Việt.
Hệ thống tượng Phật ở đây được giới khảo cổ gia ghi nhận là đa dạng về chất liệu như gỗ quý, đất nện, đồng hun.
Bản giới điệp của thiền sư Đạo Lịch chùa Hòe Nhai.
Qua đó chúng ta được biết chùa là “chốn tổ” của một trong những tông phái Phật giáo lớn của Việt Nam đó là phái Tào Động. Phái Tào Động có sư tổ thứ nhất là hòa thượng Thủy Nguyệt, tổ thứ hai là thiền sư Chân Dung. Tính đến năm 1932, phái Tào Động đã trụ trì ở Hòe Nhai được 47 đời.
Nhiều Thiền Sư đã được vua ban sắc phong. Theo Đại đức Thích Tâm Hoan, hiện nay nhà chùa còn giữ được một đạo sắc phong do vua Lê Hiển Tông phong cho thiền sư Trần Văn Chức vào năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750).
Bên cạnh pho tượng kép nổi tiếng, trong chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng cổ độc đáo khác như tượng Thích Ca sơ sinh, bộ tượng Dược Sư tam tôn cổ nhất Việt Nam, Hoa Nghiêm tam thánh…
Trong chùa còn có 28 văn bia, cổ nhất là tấm bia có niên đại từ năm 1703. Nội dung trong tấm bia nhắc tới vị trí chùa Hòe Nhai ngày trước, giúp các nhà khảo cổ xác định được địa điểm chiến thắng của nhà Trần trước quân Nguyên, giải phóng kinh thành.
Dựa vào các tài liệu khảo cổ, PGS.TS Đinh Khắc Thuân ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm xác định địa điểm Đông Bộ Đầu qua văn bia Hòe Nhai, mà tên chữ là Hồng Phúc tự ở phường Thạch Khối, huyện Vĩnh Thuận (tục gọi là Hàng Than).
Bia này hiện ở bên phải phía trước tòa đại bái. Văn bia do Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân là Hà Tông Mục soạn, có đoạn: “Phường Hòe Nhai ở bến Đông Bộ Đầu của thành Thăng Long nước Đại Việt ta, có ngôi chùa tên là Hồng Phúc. Chùa lấy sông Lô giang làm đai, Tô Lịch làm vạt, chắn ngang non Tản mà chầu về. Phong cảnh hữu tình, tinh khí ngưng tụ”.
Quan điểm trái chiều
Đại đức Thích Tâm Hoan cho rằng, chuyện kể về bức tượng “vua sám hối” đều do dân gian truyền lại chứ không có tư liệu sử sách xác nhận. Trong chùa có nhiều bia đá cổ nhưng không tấm bia nào ghi về chuyện này nên việc một nhà vua cho đúc tượng quỳ gối dưới chân Phật chỉ có thể coi đây là truyền thuyết để giải thích cho sự ra đời của bức tượng lạ.
Các ý kiến đồng quan điểm dựa vào dáng tượng mà phân tích rằng: Dáng nằm như gãy của vua thể hiện sự quy phục tuyệt đối, đó cũng là dáng của sự thuần phục chân thành. Một sự thay đổi xuất phát sâu sắc trong trái tim và nhận thức của vua.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà khoa học, trong đó có PGS.TS Trần Lâm Biền, thì: “Pho tượng “vua sám hối” không thể có từ thời Lê. Có thể khi đó vua có cho tạc tượng nhưng là một pho tượng khác, không phải pho tượng đang nằm trong chùa Hòe Nhai. Bởi dấu khóa trên vai trái của tượng cũng như những nếp hoa văn lượn sóng ở vạt áo thường được sử dụng phổ biến ở thời Nguyễn. Hơn nữa, đạo Phật chủ trương sự giác ngộ và đề cao sự nhẫn. Pho tượng này đã đi ngược tôn chỉ đó, làm hoen ố sự cao sang, thanh thoát vốn có của Phật giáo”.
Cho dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về bức tượng lạ chùa Hòe Nhai, nhưng vào năm 2006, trong dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới. Nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng “vua sám hối” chùa Hòe Nhai. Với sự độc đáo, tượng “vua sám hối” được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
BBT SƯU TẦM
Thảo luận về post