Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), một con người lịch sử, một thái tử dòng họ Thích Ca tại thành Ca Tỳ La Vệ, sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak tương ứng với tháng năm thường lịch năm 624 trước công nguyên dưới gốc cây Vô Ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni, Nê-pal ngày nay. Siddhartha có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ.
Để tỏ lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đối với đức Thế Tôn, mỗi người đệ tử của Ngài phải tự mình sống đúng với chánh pháp bằng cách không làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh. Mỗi người chúng ta phải là món quà tu tập, hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực để hiến tặng cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
Trang tin điện tử chùa Tự Tâm – Tp. Ban Mê Thuột Chuatutam.net xin giới thiệu bộ tranh lược sử cuộc đời đức Phật Thích Ca tới quý vị Phật tử và bạn đọc:
Bộ tranh
CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Phạm Thiên và Tứ Thiên Vương thỉnh cầu Bồ-tát Hộ Minh (tiền thân Phật Thích Ca)
từ cung trời Ðâu-suất hiện thân giáo hóa cõi Ta-bà.
Hoàng hậu Mahamaya (Ma-ha-ma-da) mộng thấy bạch tượng sáu ngà dâng đóa hoa sen
lúc bà mang thai thái tử.
Hoàng hậu đản sanh thái tử dưới gốc cây vô ưu trong vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni),
thành Kapilavatsu (Ca-tỳ-la-vệ), xứ Ấn Độ.
Trong lễ đặt tên của hoàng tộc, thái tử được đặt tên là Siddharta Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm).
Ẩn sĩ Kaladevila (A-tư-đà) đến thăm và đoán tướng thái tử,
cho rằng ngài sẽ thành vị Chuyển Luân Thánh Vương nếu xuất gia tu hành.
Thái tử ngồi thiền định dưới gốc cây trong lần xuất du cùng vua cha dự buổi lễ Hạ Điền
chàng nhìn thấy cảnh khổ vì tranh dành sự sống của chúng sanh.
Trong những khác lần dạo chơi ngoài cửa thành, thái tử thấy cảnh khổ vì già, bệnh, chết
và trạng thái tự tại an vui đối nghịch với cảnh khổ của một Sa-môn.
Không chỉ giỏi văn chương, thi phú, nhạc, họa… thái tử còn kiêm toàn trong các bộ môn võ nghệ,
cưỡi ngựa, bắn cung…
Tuân lệnh phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn), sau nhiều cuộc thi tài toàn thắng,
thái tử kết hôn cùng công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la).
Lo ngại thái tử sẽ xuất gia, vua Tịnh-phạn cho kiến tạo các “Cung Vui” với 3 lâu đài khác nhau
dành cho 3 mùa, trong cung không lúc nào ngớt yến tiệc, múa hát.
Sống hạnh phúc bên vợ trong nhung lụa và thú vui, thái tử không đắm mình trong hoan lạc,
ngày đêm ưu tư về những xấu xa, đau khổ ẩn đằng sau vẻ tốt đẹp bề ngoài.
Chí xuất trần đã quyết, một thời gian sau khi hoàng nam Rahula (La-hầu-la) chào đời,
một đêm, thái tử lặng lẽ vào nhìn lại vợ con lần cuối trước khi rời bỏ hoàng thành.
Rời khỏi hoàng cung, thái tử cùng người hầu Chandaka (Xa-nặc) cỡi con ngựa Kanthaka (Kiền-trắc)
âm thầm vượt dòng sông Anoma (A-nô-ma) trong đêm khuya vắng vẻ.
Bên kia bờ sông Anoma, với một nhát gươm cắt phăng mái tóc, trao lại cho Xa-nặc
mang về cùng y phục hoàng triều, thái tử quyết chí xuất gia lên đường tìm đạo.
Ròng rã 6 năm tự ép xác theo phép tu khổ hạnh đến tiều tụy vẫn không giác ngộ, một hôm
chợt nghe Phạm Thiên Indra gãy một khúc đàn, Sa-môn Cồ-đàm nghĩ ra con đường Trung Đạo.
Quyết định bỏ lối tu hành xác khổ hạnh sau một lần gục ngã do thể lực suy kiệt, Sa-môn
Cồ-đàm nhận bát cháo sữa với mật ong do Sujata (Tu-xà-đề) đi cùng người hầu gái Punna dâng cúng.
Dùng bát cháo sửa của Tu-xà-đề xong, Sa-môn Cồ-đàm thả bát xuống dòng sông Nairanjana
(Ni-liên-thuyền) phát nguyện, rồi bắt đầu ngồi thiền định dưới gốc cây asvattha (bodhi, bồ đề) bên bờ sông.
Sa-môn Cồ-đàm quán tướng “Duyên khởi” trong thời tham thiền.
Long Vương hộ pháp trong lúc Sa-môn Cồ-đàm nhập định.
Sa-môn Cồ-đàm khuất phục Ma Vương Vasavatti quấy nhiễu; một Nữ Thần từ lòng đất xuất hiện
thay ngài chiến đấu với quần ma.
Chiến thắng sự mê hoặc, quyến dụ của các Ma Nữ trong đêm trước giờ thành đạo.
Lúc sao mai mọc, ngày trăng tròn tháng tư tháng Vesak, Sa-môn Cồ-đàm chứng đắc thánh quả
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Phạm Thiên thỉnh Phật chuyển pháp luân trong khi ngài còn phân vân sau khi thành đạo,
Đức Phật quán sự sinh hóa của hoa sen, hoan hỷ truyền giảng giáo pháp cho nhân loại và Chư Thiên.
Ðức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên, thuyết giảng cho 5 anh em Kondanna (Kiều Trần Như)
tại Lộc Uyển (vườn Nai), ở Sarnath gần Varanasi (Ba-la-nại).
Ngày lễ Magha (Maghapùjà, kỳ lễ hội đánh dấu một lần vào ngày trăng tròn của tháng Màgh,
tương đương tháng giêng VN), Đức Phật truyền Đại Giới Bổn cho đại chúng 1.250 vị Tỳ-kheo.
Đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la-vệ thăm vua cha và hoàng thân, quyến thuộc.
Trong cung, Đức Phật gặp lại công chúa Da-du-đà-la.
Ðức Phật cho phép La-hầu-la được xuất gia làm Sa-di khiến vua Tịnh-phạn không vui.
Vua yêu cầu từ nay không làm lễ xuất gia cho ai chưa được cha mẹ chấp thuận và Đức Phật đã đồng ý.
Nanda (Nan-đà), con của di mẫu Mahaprajapati (Ma-ha-ba-xà-ba-đề) được đức Phật truyền giới
xuất gia và cho đi xem các cung trời sau khi miễn cưỡng theo ngài về tịnh xá trong ngày kết hôn.
Về sau, Nanda đắc quả A-la-hán.
Đức Phật về thăm và thuyết pháp cho phụ vương lúc lâm chung. Sau đó trong lễ trà tỳ vua cha,
Đức Phật giảng giải cho tứ chúng về đức hiếu thảo.
Ðức Phật hiện ứng thân giảng Thắng Pháp Vi Diệu cho thân mẫu Ma-ha Ma-da và Chư Thiên
tại cung trời Tettimsa (Ðao-lợi) trong 3 tháng.
Từ cung trời Ðao-lợi trở về, đức Phật dùng thần thông cho Chư Thiên và loài người đang tề tựu
nghênh đón ngài thấy được tất cả các thế giới hiện hữu.
Trước khi nhập diệt, đức Phật hiện tướng bệnh sau khi thọ dụng món nấm chiên-đàn quý lạ
do người thợ rèn Cunda (Thuần-đà) dâng cúng.
Ðức Phật nhập Niết-bàn (Nirvana, Nibbàna) trong rừng cây Sala, gần thành Kusinara (Câu-thi-na)
sau 80 năm trụ thế và 49 năm hoằng pháp độ sinh.
Ban biên tập (Sưu tầm)
Thảo luận về post