Kỷ Niệm Ngày Phật Chuyển Pháp Luân (Rằm Tháng Sáu)
Có ba dịp lễ lớn trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Đó là ngày lễ Māgha Pūjā, Visakha Pūjā, và Āsāḷha Pūjā. Pūjā nghĩa là tôn kính, quý kính, còn có nghĩa là sự dâng cúng, cúng dường. Ở đây, Pūjā còn có nghĩa là ngày lễ lớn.
Māgha, Visakha và Āsāḷha là tên các tháng trong lịch của Ấn độ. So với âm lịch Việt Nam, Māgha tương ứng với tháng Giêng, Visakha tương ứng với tháng Tư, và Āsāḷha tương ứng với tháng Sáu.
Māgha Pūjā là ngày lễ Rằm tháng Giêng, kỷ niệm ngày Đức Phật thuyết kệ Ovāda-pāṭimokkha (Giáo giới giải thoát), là căn bản cho các giới luật sau này. Visakha Pūjā là ngày lễ Rằm tháng Tư, tức là ngày Tam Hợp hay Phật Đản, bây giờ có khuynh hướng gọi là lễ Vesak theo cách gọi của Sri Lanka. Āsāḷha Pūjā là ngày lễ Rằm tháng Sáu, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng kinh Chuyển Pháp Luân, và sau đó, chư Tăng Nam tông bắt đầu mùa An cư Tịnh tu.
Ngoài ra, truyền thống Nam tông còn có các ngày lễ khác như ngày Tự Tứ (rằm tháng Chín) – kết thúc mùa An cư, và mùa lễ Dâng Y Kaṭhina trong một tháng, từ ngày 16 tháng Chín đến ngày rằm tháng Mười âm lịch.
☸️ Sau khi thành đạo, từ dưới gốc cây Bồ đề, Đức Thế Tôn đến vườn Nai, chuyển vận bánh xe Chánh pháp Tứ Thánh Đế, độ năm anh em Kiều Trần Như[1], từ đó Phật, Pháp và Tăng hiện hữu đầy đủ cả hai mặt lý và sự trong thế gian, làm chỗ nương tựa phước đức và trí tuệ cho hai thế giới nhân và thiên, nhằm hướng đến đời sống giải thoát, giác ngộ.
Sau khi Ngài giác ngộ, có vị Phạm thiên Sahampati cung thỉnh Ngài vì lòng từ bi thuyết pháp độ đời. Đức Phật quan sát thế gian và nhận lời thuyết pháp. Ðầu tiên, Ngài nghĩ đến đạo sĩ Alāra Kālāma và đạo sĩ Uddaka Rāmaputta, là hai vị thầy dạy đạo cho ngài khi còn là Bồ-tát tầm sư học đạo, nhưng Chư Thiên báo là hai vị này đã qua đời. Tiếp đến, Ngài nghĩ đến năm người bạn là: Kondañña (Kiều-trần-như), Bhaddiya, Vappa, Mahānāma và Assaji, mà lúc trước đã cùng tu khổ hạnh với ngài, và hiện giờ họ đang ở vườn nai (Lộc uyển), gần thành Ba-la-nại (Bārāṇasī).
Từ Bồ đề đạo tràng, nơi Ngài giác ngộ, Đức Phật đi đến vườn Nai, một cuộc hành trình dài khoảng 210 km, mất khoảng hai tháng, và đến nơi đó vào đúng ngày Rằm tháng Sáu. Thoạt tiên, khi thấy Ngài, anh em Kondañña quyết định không chào hỏi, cũng không đứng lên đảnh lễ Ngài, bởi vì họ cho rằng lúc trước, Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh, không còn là một bậc chân tu nữa. Tuy nhiên, khi Ngài tiến đến gần, chư vị đã bị chinh phục trước vẻ cao quý của một bậc giải thoát, khiến họ đối xử với Ngài vô cùng kính cẩn. Chư vị cầm lấy bình bát và thượng y của ngài, sửa soạn chỗ ngồi cho Ngài, rửa chân Ngài và gọi Ngài là hiền giả (āvuso) theo thói quen. Song Đức Phật bác bỏ cách xưng hô này, và nói:
“Này chư vị, đừng gọi Như Lai (Tathāgata) là hiền giả như một trong các vị. Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.” – (Vin i.1)
Lời tuyên bố đã khám phá con đường đưa đến Bất Tử tức con đường giải thoát, đã giác ngộ và chứng đắc Chân Lý của Ngài được năm người bạn đồng tu cũ đáp lại với vẻ hoài nghi. Các vị ấy hỏi Ngài làm thế nào một người đã từ bỏ khổ hạnh để chọn đời sống sung túc lại có thể chứng đắc Chân Lý? Ðức Phật giải thích rằng Ngài chẳng hề tham đắm đời sống sung túc. Để làm sáng tỏ mọi việc, Ngài thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, khởi đầu công trình hoằng pháp của Ngài. Bài kinh trình bày pháp giải thoát là Trung đạo, và nêu lên Bốn Sự thật Cao quý (Tứ Thánh đế) – như đã ghi lại trong Luật tạng và trong Tương ưng bộ:
“Có hai cực đoan, này chư vị, mà người xuất gia nên tránh. Hai cực đoan đó là gì? Đắm mình vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không ích lợi, là một cực đoan. Cực đoan kia là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ đau, không xứng đáng bậc thánh, và cũng không ích lợi.
Này chư vị, Như Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung đạo, chính là con đường khiến cho Ta thấy và biết rõ, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết- bàn.”
Ngài giảng tiếp:
“Đây là Chân lý về Khổ: Sinh, già, bệnh, chết là khổ; sầu, bi, ưu, não là khổ; thân cận những gì ta không thích là khổ; xa lìa những gì ta thích là khổ; cầu không được là khổ; tóm lại, ngũ thủ uẩn là khổ.
Đây là Chân lý về Nguồn gốc của Khổ: Ðó chính là khát ái đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm thấy lạc thú chỗ này chỗ kia: Đó là Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái.
Đây là Chân lý về Khổ diệt: Đó chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, quăng bỏ nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.
Đây là Chân lý về Con đường Diệt khổ: Ðó là Thánh đạo Tám ngành, tức là: Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, và Chánh Ðịnh.” – (Vin i.1; SN 56.11).
Năm vị tôn giả hết sức chú tâm lắng nghe lời ngài. Khi Ngài thuyết giảng, tôn giả Kondañña quán triệt: “Những gì có sinh khởi đều phải chịu qui luật hoại diệt”, và đắc quả Dự lưu. Sau đó, tôn giả liền xin Đức Phật nhận làm đệ tử. Đức Phật nói: “Ðến đây, này tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được khéo giảng, hãy sống đời phạm hạnh để đoạn tận khổ đau” và nhận tôn giả làm một tỳ-khưu. Như vậy, tôn giả Kondañña là vị tỳ-khưu đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đánh dấu khởi điểm sự thành lập Tăng đoàn, tồn tại cho đến ngày nay.
Chẳng bao lâu, lời dạy của Đức Phật đã giúp cho tôn giả Vappa và Bhaddiya hiểu Pháp và hai vị cũng được nhận làm tỳ-khưu. Trong lúc các ngài Kondañña, Vappa và Bhaddiya đi khất thực để cung cấp thức ăn cho cả nhóm, Đức Phật thuyết giảng riêng cho tôn giả Mahānāma và Assaji. Sau đó, hai vị nầy đắc quả bậc Nhập lưu, và xin làm đệ tử. Như vậy, lúc đó có sáu tỳ-khưu trên thế gian – Đức Phật và năm vị đệ tử của Ngài.
Vài ngày sau, Đức Phật dạy bài pháp về vô ngã – kinh Vô ngã tướng. Khi năm tỳ-khưu nghe lời thuyết giảng này của Đức Phật, tâm của chư vị thoát khỏi mọi lậu hoặc, và trở thành các bậc thánh A-la-hán giải thoát.
[1] Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, Tạp, tr 504, Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh 2.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thảo luận về post