>>KHUÔNG VIỆT THÁI SƯ VỚI VƯƠNG TRIỀU ĐINH – LÊ
TIỂU SỬ
TỔ KHUÔNG VIỆT
[Quốc Sư Ngô Chân Lưu]
(933-1011)
Đời thứ 4 – dòng Vô Ngôn Thông
oOo
Ngài tục danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi, quận Thường Lạc; dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Ngài dáng mạo khôi ngô, ý chí lỗi lạc và tánh tình bình thản. Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên trở về Phật. Ngài thọ giáo với Thiền Sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm 40 tuổi, danh Ngài vang khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Ngài ứng đối rành rẽ, vua rất mến phục, phong chức Tăng Thống. Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), vua lại phong Khuông Việt Đại Sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Ngài càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, vua đều mời Ngài vào hỏi.
Năm thứ bảy niên hiệu Thiên Phước (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang nước ta, vua Đại Hành sắc Ngài ra đón tiếp sứ. Khi Lý Giác về có để lại một bài thơ:
Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông Đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Dịch (Thượng Tọa Mật Thể):
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy cho Ngài xem, và hỏi có ý gì không. Ngài tâu:
– Câu thứ bảy sứ Tống có ý tôn bệ hạ ngang hàng với vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Ngài làm một bài tiễn sứ. Ngài vâng lệnh làm bài từ theo điệu “Tống vương lang quy”:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên quy lộ trường.
Nhân tình thảm thiết đối ly thương
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch (Thượng Tọa Mật Thể):
Gió hòa phấp phới chiếc buồm hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn nghìn dặm trải phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là.
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam Hà
Bày tỏ với vua ta.
Sau, Ngài viện lẽ già yếu xin từ quan, về quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật Đà trên núi Du Hý, làng Cát Lợi, quận Thường Lạc, rồi trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tụ họp về vấn học rất đông.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi:
– Thế nào là trước sau học đạo?
Ngài đáp:
Thủy chung vô vật diệu hư không
Hội đắc chân như thể tự đồng.
Dịch:
Trước sau không vật tợ hư không
Hội đắc chân như thể tự đồng.
– Làm sao gìn giữ ?
– Không chỗ cho ngươi hạ thủ.
– Hòa Thượng nói rõ rồi.
– Ngươi hội thế nào?
Đa Bảo hét một tiếng!
oOo
Năm thứ hai niên hiệu Thuận Thiên triều Lý (1011), ngày rằm tháng hai, Ngài gọi Đa Bảo lại nói kệ:
Mộc trung nguyên hữu hỏa
Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa
Toản toại hà do manh.
Dịch:
Trong cây sẵn có lửa
Có lửa, lửa lại sanh.
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát làm gì sanh.
Dạy kệ xong, Ngài ngồi kiết già thị tịch, thọ 79 tuổi.
ĐỌC THÊM:
KHUÔNG VIỆT
(Nguồn: Wikipedia)
Khuông Việt (匡 越, 933-1011) trước tên là Ngô Chân Lưu (吳 真 流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ nhà Ngô (吳), thuộc đời (hay thế hệ) thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị Thiền Sư được phong Tăng Thống đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
Tăng Thống Ngô Chân Lưu được ban danh hiệu Khuông Việt Đại Sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài, xã Da Hạ, huyện Kim Hoa, phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Tiểu sử:
Theo sách Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông là con cả của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập vốn có tên là Ngô Xương Tỷ. Ông là anh của sứ quân Ngô Xương Xí. Sách Thiền Uyển Tập Anh chỉ ghi ông thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế.
Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (933), cha vợ thứ của ông nội ông là Ngô Quyền. Năm 937, Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết, Ngô Quyền giết Tiễn và đánh bại quân Nam Hán, lên ngôi vua (938). Năm 944, Ngô Quyền mất, đáng lý con trai trưởng ông là Ngô Xương Ngập phải được thừa kế, nhưng người con của Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha tranh ngôi. Cha ông phải bỏ trốn về Hương Trà, nương nhờ Phạm Lệnh Công và lấy con gái Lệnh Công, sinh ra người em Xương Xí.
Dương Tam Kha lùng bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được. Chú hai Ngô Xương Văn là con bà nội kế Dương Như Ngọc nên được Tam Kha nhận làm con nuôi. Có lẽ trong cảnh gia đình gặp tai họa đó, người cha không biết sống chết lúc nào, cậu bé Ngô Chân Lưu (11 tuổi năm 944) không nơi nương tựa đã tìm đến cửa Thiền đề thoát nạn.
Cơ duyên và hành trạng
Sư Khuông Việt có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Lúc nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật.
Sư cùng bạn học trụ trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc), thọ giới Cụ-túc. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền.
Một lần Sư đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: “Ta là Tỳ Sa Môn Thiên Vương, những người theo ta là Dạ-xoa. Thiên Đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật Pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết”. Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt, đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng để thờ.
Các tràng kinh của Đinh Liễn
Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Năm 969, Đinh Tiên Hoàng mời Sư đến. Thấy Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong cho Khuông Việt làm Tăng Thống. Đây là lần đầu tiên chức Tăng Thống được nói đến trong lịch sử Việt Nam. Và sau này cho đến thời nhà Trần và nhà Lê vẫn còn sử dụng. Nhiệm vụ của người giữ chức này, tuy sử sách không ghi lại rõ ràng, song vẫn có thể hiểu như một chức để nắm các sư sãi ở trong nước.
Các nhà khảo cổ học cho biết năm 1963, tại vùng đất Hoa Lư, đã tìm được gần 20 tràng kinh hình bát giác cao từ 50 đến 80cm. Theo những dòng chữ ghi trên tràng kinh thì năm Quý Dậu (973), Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn đã cho dựng 100 tràng kinh.
Vào năm 1987, một số tràng kinh khác lại được phát hiện tại khu di tích cố đô Hoa Lư. Căn cứ thông tin trên số tràng kinh cho thấy năm 979 Đinh Khuông Liễn lại dựng 100 tràng kinh nữa.
Các kinh tràng và sự tham mưu của Khuông Việt, tuy gián tiếp, nhưng rất có ý nghĩa đối với lịch sử và văn hóa dân tộc cũng như Phật Giáo.
Năm Thái Bình thứ hai (971), vua ban hiệu Khuông Việt Đại Sư.
Vương Lang Quy
Lý Giác là người đã từng đi trong phái bộ Lý Nhược Chuyết trong năm trước để sang phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam Đô Hộ Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ và đòi vua Lê Đại Hành trao trả hai tên tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt trong cuộc chiến năm 981.
Phái bộ của Lý Giác đến Việt Nam lần hai vào năm Thiên Phúc thứ 7 (987).
Vua Lê Đại Hành đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách (nay thuộc tỉnh Hải Dương) để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp.
Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí để tấu kèm theo. Khúc “từ” này có tên là Ngọc Lang Quy, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành Vương Lang Quy.
Đây là một tác phẩm văn học đầu tiên hiện còn của lịch sử ngoại giao Việt Nam, nếu không kể đến các văn thư ngoại giao với Trung Quốc. Đồng thời, nó cũng là bài Nguyễn Lang Quy không những xưa nhất của văn học Việt Nam, mà còn của văn học thế giới, bởi vì những bài từ loại này hiện còn chép trong các sách Trung Quốc như Tống Lục Thập Danh Gia Từ, Tuyệt Diệu Hảo Từ Thiêm, Từ Tổn v.v… đều là của những tác giả về sau như Âu Dương Tu (1007-1072), Tô Thức (1037-1101), Hoàng Đình Kiên (1045-1105)…
祥 光 風 好 錦 㠶 張
神 𠎣 復 帝 鄉
千 重 萬 里 涉 滄 浪
九 天 㱕 路 長
人 情 慘 切 對 離 觴
攀 戀 星 星 郎
願 將 深 意 爲 南 強
分 明 報 我 皇
Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang
Cửu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
(Trời lành gió thuận, gấm buồm dương
Thần tiên về để hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường
Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu Thượng hoàng.)
Triết lý hành động
Trên 30 năm Đại Sư Khuông Việt đã phục vụ trong các chính quyền của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã thể hiện được tài năng nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật Giáo mà cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam lúc ấy đã thực hiện tốt chức năng đào tạo những người trí thức có khả năng gánh vác không chỉ việc đạo mà cả việc nước việc dân.
Khuông Việt trong thời gian theo học tại chùa Khai Quốc, đã được Thiền Sư Vân Phong dạy những gì, hiện không ai biết; và tiểu sử của Vân Phong cũng không ghi nhận có dấu tích nào. Tuy nhiên, quan điểm học thuật của Vân Phong, dẫu có nằm trong dòng chủ lưu của tư tưởng Thiền, xoay quanh những vấn đề như sống chết, nhưng đã đưa ra những kiến giải mới phù hợp với hệ tư tưởng Thiền của dòng thiền Pháp Vân. Đó là, muốn tránh khỏi sống chết thì hãy ở trong sống chết mà nắm lấy. Nói cách khác, không có chỗ không sống chết bên người sống chết để cho người ta tìm thấy được. Chính trong chỗ sống chết người ta mới tìm được sự không sống chết.
Đây rõ ràng phản ảnh tư tưởng “Tây Thiên cõi này, cõi này Tây Thiên” và quan điểm “Phật ở khắp mọi nơi” của Cảm Thành. Nếu suy rộng ra, thì đây cũng là tư tưởng trong kinh Kim Cương mà Thanh Biện đã đề xuất. Đó là “tất cả pháp đều là Phật Pháp”. Xuất phát từ một học lý như thế, người ta mới có thể dễ dàng ung dung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi sự hoàn thành việc đời như một chứng tích cho sự hoàn thành việc đạo. Người ta không thể tìm có một thế giới Giác Ngộ nào khác bên ngoài cuộc đời này. Nói một cách hình ảnh, thì lửa có sẵn trong cây, vấn đề là làm sao cho cây bật ra lửa.
Triết lý hành động của Khuông Việt như thế dựa trên một nhận thức luận coi cuộc đời là nơi mình có thể giải thoát được bằng chính nhận thức của mình. Thế giới Giác Ngộ cũng như hành động của Phật Giáo không nằm bên ngoài cuộc đời, và con người không cần đi tìm bất cứ một thế giới nào khác. Điều này giải thích cho ta tại sao Khuông Việt đã ung dung tích cực tham gia vào việc nước việc dân và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ độc lập của tổ quốc.
Khi đã rời nhiệm vụ Tăng Thống và những chính sự khác, Đại Sư đã trở về mở trường ở chùa Thanh Tước núi Du Hý của quận Thường Lạc. Tại đây, “học trò tìm tới đông đảo”. Dù vậy, Khuông Việt đã không quên ngôi chùa lịch sử của Thầy mình, đó là chùa Khai Quốc. Sư cũng thường lui tới giảng dạy tại trường giảng của chùa này. Sử sách đã ghi lại cho ta một người có thể bước theo bước chân của Thầy mình, đó là Thiền Sư Đa Bảo, người có ảnh hưởng đến sự việc lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: “Thế nào là chung thủy của sự học đạo”. Sư đáp: “Thủy chung không vật, diệu hư không. Hiểu được chân hư, thể tự đồng”.
Bảo tiếp: “Làm sao bảo đảm được?”
Sư đáp: “Không có chỗ cho người xuống tay.”
Bảo nói: “Hòa Thượng nói xong rồi.”
Sư lại hỏi: “Ngươi hiểu gì?”
Bảo bèn hét lên!
Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (tức 22 tháng 3 năm 1011), khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
木 中 原 有 火
有 火 火 還 生
若 謂 木 無 火
鑽 遂 何 由 萌
Mộc trung nguyên hữu hỏa
Hữu hỏa, hỏa hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toản toại hà do manh.
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng.
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi./.
———=oOo=———
PHỤ LỤC
– Về sự dị biệt năm sinh, năm viên tịch và tuổi thọ của Quốc Sư Khuông Việt – Ngô Chân Lưu trong các tài liệu hiện có, chúng tôi thật không dám khẳng định bởi tự xét là mình tài sơ trí thiển. Xin mời Quý Bạn Đọc tham khảo thêm một đoạn trích “bàn về năm sinh” của Ngài dưới đây mà chúng tôi rút ra từ bài biên khảo “Khuông Việt Thái Sư với vương triều Đinh – Lê” của tác giả Nguyễn Công Lý trong “Hội Thảo Quốc Tế: Quốc Sư Khuông Việt và Phật Giáo Việt Nam Đầu Kỷ Nguyên Độc Lập” (Đại Học Quốc Gia Hà Nội & Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội – ngày 18-19/3/2011, tr. 106-120); đăng lại trên tập san Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn (Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn thuộc Đại Học Quốc Gia Tp.HCM, số tháng 4/2011).
…
oOo
……
Trước hết, xin được bàn lại về năm sinh của Khuông Việt Thái Sư:
Sách Thiền Uyển Tập Anh 禪 苑 集 英 (sách được viết cuối đời Lý đầu đời Trần) bản in xưa nhất hiện còn là bản năm Vĩnh Thịnh thứ 11, tức năm 1715, đời Lê Dụ Tông (1705-1720), ký hiệu A.3144. Đây là một tác phẩm đan xen các thể loại, vì vừa ghi lại hành trạng, tiểu truyện các vị Thiền sư; vừa ghi chép lịch sử truyền thừa các thế hệ thuộc các dòng Thiền ở Việt Nam: truyện truyền đăng; trong đó có ghi chép lời đối đáp giữa các vị Thiền sư: ngữ lục; và những lời này có thể xem như là các công án Thiền; trong các tiểu truyện lại có tàng trữ thi kệ nên tác phẩm có giá trị thi ca rất lớn, nhờ đó mà các văn bản văn học của các bậc tiền nhân – chủ yếu là của các Thiền sư – từ thời Bắc thuộc (thế kỷ thứ VI) đến đầu đời Trần (thế kỷ thứ XIII) còn được lưu truyền đến nay; cũng có thể xem tác phẩm thuộc thể tài biến văn, và là cuốn Phật Giáo Sử đầu tiên của nước ta. Riêng viết về tiểu sử, hành trạng của Khuông Việt Thiền Sư 匡 越 禪 師 thì tác phẩm này là cuốn sách chép đầu tiên. Từ đó, các bộ chính sử phong kiến, các bộ Phật Giáo Sử sau này căn cứ vào đó mà biên chép lại.
Khuông Việt tên là Ngô Chân Lưu, người ở hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc[1], là hậu duệ của Ngô Thuận Đế[2]. Thiền sư có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, chí khí cao xa, thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên quy y Phật, nhờ đó được tinh thông tam giáo cửu lưu, đọc rộng kinh sách Phật Giáo, hiểu sâu ý chỉ Thiền học. Thiền sư thuộc thế hệ thứ tư dòng Thiền Vô Ngôn Thông, là đệ tử truyền thừa của Thiền sư Vân Phong. Căn cứ vào sách Thiền Uyển Tập Anh 禪 苑 集 英 thì Ngài mất năm 1011. Còn về năm sinh, ngài sinh năm 960, 933 hay 930? Đặt ra câu hỏi này, bởi lẽ, hiện có vài tài liệu viết khác nhau.
Sách Thiền Uyển Tập Anh 禪 苑 集 英, ở đoạn cuối tiểu truyện về Khuông Việt có chép: 李 朝 順 天 二 年 二 月 十 五 日, 將 告 寂, 示 寶 偈 云: 木 中 原 有 火, 有 火 火 還 生. 若 謂 木 無 火, 鑽 遂 何 由 萌. 偈 畢, 趺 跏 而 逝. 壽 五 十 有 二 (或 云 壽 七 十 九) (TUTA tờ 9b2-9b4).
Lý triều Thuận Thiên nhị niên nhị nguyệt thập ngũ nhật, tương cáo tịch, thị Bảo kệ vân: ‘Mộc trung nguyên hữu hỏa, Hữu hỏa hỏa hoàn sinh. Nhược vị vô mộc hỏa. Toản toại hà do manh’. Kệ tất, phu già nhi thệ, thọ ngũ thập hữu nhị (hoặc vân thọ thất thập cửu).
Dịch: Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2, triều Lý, sắp khai tịch. Thiền sư dạy Đa Bảo một bài kệ: ‘Trong cây sẵn có lửa, Có lửa lửa lại sinh. Nếu bảo cây không lửa, Cọ xát do đâu sinh’. Nói xong, Thiền sư ngồi kiết già mà hóa, thọ 52 tuổi (hoặc nói thọ 79 tuổi).
Năm Thuận Thiên thứ 2, triều Lý, tức năm Tân Hợi (1011) đời vua Lý Thái Tổ (1009-1028). Như vậy, theo Thiền Uyển Tập Anh 禪 苑 集 英, thì Khuông Việt tịch năm 1011. Điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng về năm sinh, theo ghi chép trong Thiền Uyển Tập Anh, nếu Khuông Việt tịch lúc 52 tuổi (tuổi âm lịch), thì Ngài sinh vào năm 960 (tức [1011 – 52] + 1); còn nếu tịch lúc 79 tuổi thì Ngài sinh vào năm 933 (tức [1011 – 79] + 1). Vì thế, Thơ Văn Lý – Trần tập 1 của Viện Văn Học ghi Khuông Việt sinh năm 933[3]; Bản dịch Thiền Uyển Tập Anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga cũng ghi năm sinh là 933[4]; Hà Văn Tấn trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (Viện Triết học – Nguyễn Tài Thư chủ biên) cũng ghi như thế[5]; Hòa Thượng Thích Thanh Từ trong Thiền Sư Việt Nam, và trong Tham Đồ Hiển Quyết và Thi Tụng Các Thiền Sư Đời Lý giảng giải đều ghi sinh năm 933[6]. Trong khi đó, Lê Mạnh Thát ở công trình nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh và trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 2 thì lại ghi sinh năm 930[7]. Có việc ghi về năm sinh như trên là vì các nhà nghiên cứu đều căn cứ vào sách Thiền Uyển Tập Anh cùng bộ chính sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mà suy ra. Thơ văn Lý – Trần tập 1; bản dịch Thiền Uyển Tập Anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Viện Triết Học (Nguyễn Tài Thư chủ biên) và một số tài liệu Phật học, sử học khác v.v… đều cho rằng Thiền sư Khuông Việt sinh năm 933 là vì căn cứ vào cái mốc Khuông Việt mất năm 79 tuổi như Thiền Uyển Tập Anh có ghi chú thêm sau câu chính văn với dòng chữ nhỏ: 或 云 壽 七 十 九 “hoặc vân thọ thất thập cửu” (hoặc nói thọ 79 tuổi) (TUTA tờ 9b4). Nhưng dựa vào đâu mà Lê Mạnh Thát lại cho rằng Khuông Việt sinh năm 930? Ông biện luận rằng: như Thiền Uyển Tập Anh đã chép, nếu Khuông Việt mất năm 52 tuổi thì không viết là ‘thọ’ được[8]; ông còn phủ nhận Khuông Việt không thể mất năm 79 tuổi (tức sinh năm 933), bởi không thể Khuông Việt được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt trước năm 40 tuổi (vì năm được phong là năm Thái Bình thứ hai 971); rồi cuối cùng Lê Mạnh Thát lại nghi ngờ sách đã in nhầm một chữ ở cả 3 bản in đời Lê và đời Nguyễn, đó là chữ 八“bát” in thành chữ 五 “ngũ” trong 壽 五 十 有 二 “thọ ngũ thập hữu nhị”, mà theo ông đúng ra phải là 壽 八 十 有 二 “thọ bát thập hữu nhị” (thọ 82 tuổi), từ đó ông khẳng định Thiền sư Khuông Việt sinh năm 930 (tức [1011 – 82] + 1)[9]. Ý kiến của Lê Mạnh Thát như vừa nêu, theo thiển nghĩ, xét đến cùng, cũng chỉ là suy đoán chứ chưa đủ sức thuyết phục, vì ông chưa làm phép tính chính xác, ông nói “như Thiền Uyển Tập Anh đã chép” nhưng thật ra sách có chép như ông viết đâu!
Xin được nói thêm, hiện chưa thấy một tài liệu nào đồng ý với năm sinh của Ngài là 960, bởi năm 971 là năm Thiền sư được vua mở đầu nhà Đinh phong chức Tăng Thống và ban danh hiệu, thì lúc này Ngài chỉ mới 12 tuổi! Nên nếu ghi năm sinh là 960 thì không thể thuyết phục và khó lòng chấp nhận.
Nhưng theo tôi, Khuông Việt có thể sinh trước năm 933 một vài năm. Bởi lẽ, cũng ở tiểu truyện Khuông Việt trong sách Thiền Uyển Tập Anh có ghi thông tin sau:
年 四 十, 名 震 于 朝, 丁 先 皇 帝 召, 對 稱 旨, 拜 為 僧 統, 太 平 二 年, 賜 號 匡 越 大[10] 師 (tờ 8a9-10-11).
Niên tứ thập, danh chấn vu triều, Đinh Tiên Hoàng đế triệu, đối xưng chỉ, bái vi Tăng Thống, Thái Bình nhị niên, tứ hiệu Khuông Việt Đại Sư.
Dịch: Năm 40 tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình, vua Đinh Tiên Hoàng mời về kinh đô [Hoa Lư], [Thiền sư] đối đáp hợp ý, [được vua] bái phong làm Tăng Thống, năm thứ hai niên hiệu Thái Bình (tức năm 971), vua ban hiệu Khuông Việt Đại Sư.
Thêm một thông tin khác, bộ chính sử Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản Kỷ, quyển 1, kỷ nhà Đinh có chép:
“Tân Mùi, Thái Bình năm thứ hai (971) [Tống, Khai Bảo năm thứ tư], mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và Tăng đạo. Cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm Đô Hộ Phủ Sĩ Sư, Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng Quân, cho Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống hiệu là Khuông Việt Thái Sư, cho Trương Ma Ni làm Tăng Lục Đạo Sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân Uy Nghi”[11].
Như vậy, trong lịch sử nước nhà, các chức Tăng quan, cụ thể là Tăng Thống, Tăng Lục v.v… bắt đầu có từ năm 971, mà Thiền sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu là người được triều đình nhà Đinh phong tặng đầu tiên, và là vị Tăng Thống đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
Căn cứ vào hai văn bản gốc với những ghi chép thông tin nhất quán về năm phong chức Tăng Thống như trên, từ đó làm phép tính để suy ra năm sinh của Thiền sư Khuông Việt như sau: Ngài tịch vào năm 1011, mà năm Tân Mùi (971), lúc 40 tuổi được phong làm Tăng Thống, được ban hiệu Khuông Việt Thái Sư 匡 越 太 師 (vị Thái sư khuông phò nước Đại Cồ Việt), thì 1011 – 971 = 40 tuổi âm lịch (năm và tuổi được vua phong chức, ban hiệu) và [971 – 40] + 1 = 932, như vậy Ngài sinh vào năm 932. Còn có thuyết nói Ngài tịch lúc 79 tuổi như Thiền Uyển Tập Anh có ghi chú thêm, mà sau này bộ Thơ Văn Lý – Trần, tập 1; bản dịch Thiền Uyển Tập Anh do Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch, chú thích; sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Viện Triết Học v.v… đã dùng để ghi lại (tức sinh năm 933), thì theo tôi khó lòng thuyết phục, bởi [933 + 40 tuổi] – 1 = 972 (năm được phong chức ban hiệu), và như vậy thì năm này lại không đúng như sử sách đã ghi, tức năm 971; đồng thời, giả sử nếu đúng là Ngài sinh vào năm 933, rồi năm 971 ngài được nhà vua phong chức và ban hiệu, thì lúc này ngài chỉ mới 39 tuổi, tức chưa đầy 40, và như thế cũng không đúng với thông tin mà sách Thiền Uyển Tập Anh cùng bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản Kỷ, quyển 1, kỷ nhà Đinh đã ghi.
Từ đó, xin được kết luận: Khuông Việt Thiền Sư sinh năm 932. Năm Ngài 40 tuổi, tức năm 971 (năm Tân Mùi, năm thứ hai niên hiệu Thái Bình) được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt Thái Sư. Ngài viên tịch vào ngày rằm tháng 2 năm thứ hai niên hiệu Thuận Thiên, triều vua Lý Thái Tổ (1009-1028), tức năm Tân Hợi (1011), thọ 80 tuổi.
……
———=oOo=———
Thảo luận về post