Sơ Tổ thiền phái Trúc Lâm Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258–1308) tên thật là Trần Khâm, là con trai đầu lòng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều.
Ngay từ khi sinh ra, Ngài đã tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội, cũng tức là Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi Ngài là Kim Tiên đồng tử.
Sử sách chép rằng bên vai phải của Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn.
Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử, Ngài cố từ chối để nhường lại cho em mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này.
Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu. Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp.
Vị sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.
Ngài thường ăn chay nên thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do, Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?”.
Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt. Thế là Ngài theo cái duyên phận của kẻ làm con, tận chữ hiếu, dốc sức theo học đạo kinh bang tế thế, an lòng vua cha, kế nghiệp tổ tiên. Quả đúng là:
Lòng vui với Đạo muốn xa đời
Làm con chữ hiếu chẳng buông lơi.
Xã tắc lâm nguy vai gánh vác,
Trùng Hưng kỳ tích rạng muôn đời.
Khi giặc Nguyên sang xâm chiếm, Ngài với duyên phận và trách nhiệm của xã tắc đã đoàn kết quân dân, đích thân xông pha nơi mũi tên hòn đạn, cổ vũ khích lệ tướng sỹ, trên dưới một lòng nên đã hai lần đại phá quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước.
Dưới sự trị vì của Trần Nhân Tông, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước ở Diên Hồng để bàn mưu kế, tỏ quyết tâm chống giặc.
Sách Việt Sử Tiêu Án chép rằng: “Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, thì tất là Vua thân hành ra ngoài trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi nhất định đường nào; khi ở trên bộ, khi ở thủy, không đóng nhất định ở đâu. Đó không phải là rát, là vì Vua ở bên ngoài, thì dễ hiệu triệu thiên hạ. Cổ lệ lòng hăng hái của quân sĩ, chư tướng thì tiện việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân thì vui lòng xông pha, lính tráng đều là quân của nước, của nhà giàu là của nước, có cơ hội nào thì cổ động quân sĩ xông vào trước, gặp tình thế không may thì tùy tiện mà chống giữ; khi tiến quân thì nhanh như chớp nhoáng, khi lui về thì như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà lường đạc được; nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chặn đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao. Có tin giặc đến mà Vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính cách đánh của nhà Trần”.
Chiến công thần kỳ hai lần đại phá quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt đã chấn động bốn cõi, được Nguyễn Sưởng tóm tắt bằng câu thơ:
Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán tại quan hà bán tại nhân.
Dịch thơ:
Đại nghiệp Trùng Hưng ngời vạn cổ,
Nửa bởi non sông nửa do người.
Làm tròn chữ hiếu của kẻ làm con, làm trọn đạo nhân nghĩa của bậc quân vương, lấy sinh mệnh đền ơn tiên tổ, trọn trách nhiệm của bậc trượng phu với sơn hà xã tắc, trọn nghĩa vụ của bậc thiên tử chăm lo cuộc sống bách tính lê dân, an cư lạc nghiệp sau những năm chiến tranh tàn phá, trọn trách nhiệm của bậc làm cha, dạy dỗ chỉ bảo cho hoàng tử khôn lớn, đủ tài đức gánh vác non sông.
Năm 1299, Ngài rời khỏi danh lợi chốn hồng trần, lên Yên Tử nơi địa linh phúc địa, tẩy sạch tâm trần, theo cái duyên hằng mong mỏi, xuất gia tu luyện, trở về với tâm nguyện xa xưa, vững bước trên con đường phản bổn quy chân, về miền tịnh thổ.
Sau khi khổ tu, khai ngộ, đắc Đạo, Ngài lại thuận theo cái duyên của bậc Giác Ngộ, giáo hóa văn minh cho bách tính lê dân, hoằng dương Phật Pháp khắp xa gần, trong và ngoài bờ cõi.
Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tịnh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm.
Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp.
Ngài cũng xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa trong cả nước, kể cả ở thôn quê lẫn thành thị. Trên cương vị là Thượng hoàng-Thiền sư, Ngài đã dạy dân bài trừ các hủ tục và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập thiện (mười điều thiện).
Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến rồi ở đó. Bài dẫn của Trần Quang Chỉ trong tranh “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” đã mô tả về chuyến đi này rằng:
“Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước…”.
Cũng chính trong lần đi hoằng Pháp này, Ngài đã hứa gả con là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Để đáp lễ, Chế Mân xin nhượng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt.
Đến ngày mùng 1 tháng 11, đêm trời trong sao sáng, Ngài hỏi thị giả Bảo Sát:
“Hiện giờ là giờ gì?”. Bảo Sát bạch: “Giờ Tý”. Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?”. Ngài nói kệ đáp:
Nguyên văn:
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.
Dịch thơ:
Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi vậy.
Xong xuôi, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, đó là vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), Ngài thọ năm mươi mốt tuổi. Pháp Loa theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Trí huệ thiền Trúc Lâm Ban đầu Ngài xả bỏ hết danh-lợi-tình nhân thế, vào núi tu hành khổ hạnh, nhưng cuối cùng Ngài phát hiện ra, khổ hạnh lại là theo thái cực khác. Vậy nên Ngài đã theo con đường trung đạo, bỏ danh lợi tình, nhưng không ép xác tu khổ hạnh: “Đói bụng thì ăn mệt ngủ liền”.
Và khi khai ngộ, đắc Đạo, Ngài thấy xuất gia tu hành cũng chỉ là hình thức, thực chất tu luyện là tu cái tâm: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Do đó Ngài khuyên hậu thế chớ theo gương Ngài tìm chốn núi sâu rừng già, tầm sư học Đạo, vân du chân trời góc biển làm gì. Thay vào đó, hãy tu chính cái tâm của mình, tìm lại Phật tính, tìm lại bản tính Thiện nguyên sơ của mình mà thôi.
Ấy chính là:
Bỏ tâm danh lợi chẳng khổ hạnh,
Theo đường Trung đạo thuận theo duyên.
Tìm Phật đâu cần đi góc biển,
Tu tâm đoạn dục ấy là thiền.
Cư Trần Lạc Đạo
Mỗi người đều có Phật tính, như trong nhà ai cũng có của báu. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát.
Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một vị vua không chỉ để lại những tấm gương chiến công lừng lẫy trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà còn là sơ Tổ dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đặc trưng của Việt Nam đã làm rạng danh Phật giáo đời Trần, như một trong những đỉnh cao hưng thịnh của Phật giáo dân tộc.
“Cư Trần Lạc Đạo” của Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông là một triết lý sống kết hợp đạo với đời, thổi thêm sức sống cho Phật giáo đương thời tăng trưởng như tôn giáo nhập thế, luôn đồng hành cùng dân tộc Đại Việt.
“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”
居 塵 樂 道
( 竹 林 安 子 第 一 祖 陳 仁 宗 )
居 塵 樂 道 且 隨 緣
饑 則 飧 兮 困則 眠
家 中 有 宝 休寻 覓
对 鏡 無 心 莫問 禪
Tạm dịch:
Sống ở trên đời tuỳ theo hoàn cảnh mà vui với đạo
Ðói thì ăn, mệt thì ngủ
Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm
Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi Thiền là gì
Dịch thơ:
Ở đời vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”
(居 塵 樂 道 且 隨 緣 )
“Cư trần” Sống trong cõi đời, Đức Vua – Phật hoàng đã thừa nhận sự tồn tại của huyễn thân. Cõi trần là một giả cảnh, chỉ là một chặng đường trong luân hồi, nhưng lại là một giai đoạn không thể bỏ qua, chính là giai đoạn để giác ngộ chân lý.
“Lạc đạo” vui với đạo là một tâm thế hành đạo, thuận theo lẽ đạo, tùy duyên mà hành đạo, tùy duyên nhưng bất biến.
“Cơ tắc xan hề khốn tắc miên”
(饑 則 飧 兮 困則 眠)
– Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền. Chấp nhận những quy luật của cuộc sống, không chấp ngã, chấp không.
“Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
(家 中 有 宝 休寻 覓
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.”
对 鏡 無 心 莫問 禪)
Mỗi người đều có Phật tính, như trong nhà ai cũng có của báu. Giáo pháp của đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật tại tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận.
Chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tổ để làm phương pháp truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên hiểu nhau, thông cảm đạo lý, truyền thụ được chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.
Người tu thiền đạt đạo có được những quyền năng siêu việt mà người thường không dễ gì có được. Truyền thuyết Phật giáo truyền rằng: Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du hành các cõi Phật.
Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi Phật đến quốc độ của đức Phật Thích Ca có tầm âm vang xa. Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng vâng mệnh của đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục, giảng thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-Ta La là vua nước Ma-Kiệt-Đà đang bị giam cầm.
Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có phép tha tâm thông nên từ xa đã đọc được tư tưởng của đại đệ tử Tu-Bồ-Đề.
Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.
Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính.
Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
Ở Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm Giáo lý, Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc giáo. Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực.
Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý của nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc băng hà, Vua Trần Nhân Tông mới hóa Phật. Danh hiệu Vua Phật Hoàng đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.
Trẫm thầm nhủ: “Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh.”
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”. (Thiền Tông Chỉ Nam)
“Cư trần lạc đạo” nghĩa là ở đời mà vui đạo, là giác ngộ ngay giữa cuộc đời, giác ngộ không phải xa lánh cuộc đời hay quên đời. “Cư trần lạc đạo” của đức Vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông đã, đang và sẽ sống mãi cùng dân tộc, trong lòng dân tộc.
Tưởng niệm 705 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn
Thảo luận về post