TIN LIÊN QUAN
- Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ vừa viên tịch
- Di chúc & Video Tang lễ Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
- [Thi ca] THIÊN LÝ ĐỘC HÀNH – TUỆ SỸ | Thư viện Huệ Quang
AI ĐIẾU HT TUỆ SỸ
Một giọt sương rơi
Cho hiên chùa thêm quạnh
Một vầng trăng về tây
Cho biển tối thêm sâu
Một Tăng Triệu thời nay
Giũ áo qua cầu
Tiếng thạch sùng khuya
Gió lùa tàng kinh các
Cầm đèn tuệ chênh vênh
sống một đời cao sĩ
Vóc hạc gầy mong manh
hồn chứa hết tam thiên
Chí cao vợi
cô đơn
dặm trần không tri kỷ
Phiên chợ đời phũ phàng
Sao đắt đỏ chữ duyên
Trời nam lặng một bóng người
vai gầy cõng đạo, một trời sở tri
việc xong, quẳng gậy mà đi
hổ khê áo cỏ dặm về trăng soi…
Toại Khanh
Vị tu sĩ ‘XUẤT CHÚNG’ về tri thức và giáo dục – Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ – Nguồn: Truyền Thông Phật Giáo
ĐỘC HÀNH KỲ ĐẠO
1- Cảnh Xuân từng trao đổi với thầy Mạnh-tử rằng: “Người mà như Công Tôn Diễn, như Trương Nghi, chỉ cần chau mày là khắp chư hầu khiếp vía, còn nếu ngồi yên thì chiến sự bình yên thiên hạ thái bình há chẳng đáng gọi là bậc đại trượng phu trong đời sao?”. Thầy Mạnh-tử nghe vậy nghiêm nét mặt bảo: “Chỉ có thế mà ông đã cho là đại trượng phu sao? Lẽ nào ông chưa học Lễ ư?! Người con trai khi làm lễ đội mũ thành niên sẽ được cha chỉ bảo; người con gái khi xuất giá sẽ được mẹ khuyên răn, lúc được ra cửa thời dặn dò rằng ‘về nhà [chồng] rồi, mọi sự đều phải cung kính mà giữ gìn khuôn phép, đừng làm trái [đạo] [với] chồng’ lấy sự tòng thuận làm mực thước. [Còn như con trai] phải sống được trong đạo NHÂN, phải đứng được vào chỗ LỄ, phải đi được trên con đường NGHĨA; lúc đắc chí thì cùng người trong thiên hạ đồng hành, nhược bằng thất chí thì độc bộ độc hành trong cái ĐẠO của mình. Giàu sang chẳng loạn tâm, nghèo hèn không nhụt chí, uy vũ cường quyền không thể khuất phục, như vậy đó mới đáng để xưng tán là bậc đại trượng phu.” [1]
2- Cung kính ngưỡng bạch Thầy,
Bảy mươi chín xuân thu, non ba vạn ngày đều đặn, hoàng hôn buông xuống rồi lại ngắm bình minh lên, Thầy vẫn ngồi đó, giữa khung trời tịch mặc lặng lẽ gìn Pháp mạch thiền gia. Ấy vậy mà, chiều nay, một buổi hoàng hôn chớm đông vừa khuất dạng, cội lão tùng cũng đã ngả về tây, vậy là:
Quán trọ chiều nay không ngăn nỗi,
Một bước thong dong – một nẻo về…
Thời khắc tương giao trên lằn ranh của tử – sinh đi và ở, tiễn biệt Thầy, con biết viết gì đây khi Thầy đã là hiện thân tròn đầy của bậc ĐẠI TRƯƠNG PHU, khi danh lợi chẳng thể loạn tâm, khi khốn khó nghèo hèn không thể làm nhụt chí, khi mà uy vũ cường quyền hằn lên trên bản án tử với mười bảy năm tù đày lao lý, lại chưa từng khuất phục được ngọn núi Tu-di ẩn trong lớp hình hài mai hạc hao gầy của Thầy dẫu chỉ mảy may. Viết gì đây khi ngôn ngữ trần gian bỗng trở nên bất lực trước nguồn tuệ thênh thang sớm đã thành “huyền thoại”, khi một Duy-ma thị hiện bằng xương thịt giữa gió bụi đời phàm.
3- Bất năng dữ dân do chi, cố thiên lý độc hành kỳ đạo 不能與民由之,故千里獨行其道 thật vậy, thiên lý quan san đã không thể cùng người chung bước, nếp đạo nhà Thầy lặng lẽ một mình đi. Ai ngán ai! Như lão cư sĩ họ Tô từng viết:
“Mặc tiếng mưa xuyên vỗ lá rừng,
Ngâm nga lững thững chẳng chồn chân.
Giầy rơm gậy trúc hơn ngựa tốt,
Ai ngán?” [2]
Và ở nơi xa ấy,
“Tà dương trên đỉnh đón chân người.
Quay đầu nhìn lại cung đường cũ,
Lối về,
Chẳng gió mưa chi, chẳng nắng hồng!” [3]
4- “Ai nói người học Thiền phải chịu đày đọa thân tâm? Họ nhàn hạ, họ thong dong, họ tiêu sái; họ lãng đãng như Lô Sơn thấp thoáng giữa mây trắng và sương mù. Tuy nhiên như thế, nhưng ai quyết rằng tâm hồn đó trầm mặc như nước hồ không dao động? Giữa lòng Lô Sơn, dải Ngân hà trên bầu trời cô tịch không ngừng đổ xuống ầm ầm như sấm sét.
Thi sỹ và Thiền sư cùng lao đao, và cùng tiêu sái, trong cùng một cõi trầm mặc phiêu bồng, vừa Không vừa Tĩnh. Ngọc đường kim mã, hay Giang bắc, Giang nam; lão thần nghinh ngang nơi ngọc đường kim mã, hay lão thần cô quạnh nơi Hoàng Châu, Huệ Châu…, đày ải hay không đày ải, hồn thơ vẫn điềm đạm bao la trong trời thơ huy hoàng bát ngát.” [4]
5- Cung tán:
源流從佛出,
證理契禪機。
慧燈挑日月,
士氣吞晴天。
NGUYÊN lưu tùng Phật xuất,
CHỨNG lý khế thiền ky.
TUỆ đăng khiêu nhật ngoạt,
SỸ khí thốn thanh thiên. [5]
Bậc HIỀN GIẢ, TRÍ GIẢ trăm năm khó gặp, đã tùy duyên nhập mộng ghé cõi này, dẫu biết rằng nhạn quá trường không, song, ơn pháp hóa dễ đâu mai một.
Bảy mươi chín xuân thu, bốn mươi sáu giới lạp, mười bảy năm tù đày lao ngục, nhoẻn miệng cười bản án tử hình theo ngọn gió trảm xuân phong.
Đường thiên lý, Thầy lại độc hành độc bộ,
Trăng đại ngàn, chừ quải ngọn cô phong…
Dã Hạc Cư, 24.11.2023
(Hạ Ngươn ngày 12 năm Quý Mão)
Hậu học Sơn Dã cung tiến Giác linh Ôn
________________
[1] 景春曰:“公孫衍、張儀豈不誠大丈夫哉?一怒而諸侯懼,安居而天下熄。”
孟子曰:「是焉得為大丈夫乎?子未學禮乎?丈夫之冠也,父命之;女子之嫁也,母命之,往送之門,戒之曰:『往之女家, 必敬必戒,無違夫子!’以順為正者,妾婦之道也。居天下之廣居,立天下之正位,行天下之大道。得志,與民由之;不得志,獨行 其道。富貴不能淫,貧賤不能移,威武不能屈,此之謂大丈夫。”
Cảnh Xuân viết: Công Tôn Diễn, Trương Nghi khởi bất thành đại trượng phu tai? Nhất nộ nhi chư hầu cụ, an cư nhi thiên hạ tức.
Mạnh tử viết: Thị yên đắc vi đại trượng phu hồ? Tử vị học Lễ hồ? Trượng phu chi quán dã, phụ mệnh chi; Nữ tử chi giá dã, mẫu mệnh chi, vãng tống chi môn, giới chi viết “vãng chi nữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử” dĩ thuận vi chính giả. Cư thiên hạ chi quảng cư, lập thiên hạ chi chính lập, hành thiên hạ chi đại đạo; Đắc chí, dữ nhân do chi; Bất đắc chí, độc hành kỳ đạo. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu.
[楊伯峻.(2013). 《孟子譯註》.北京:中華書局, 128頁]
[2][3] Bài từ của Tô Đông Pha
【定風波】
莫聽穿林打葉聲,
何妨吟嘯且徐行。
竹杖芒鞋輕勝馬,誰怕?
壹蓑煙雨任平生。
料峭春風吹酒醒,微冷,
山頭斜照卻相迎。
回首向來蕭瑟處,歸去,
也無風雨也無晴。
【âm】
Mạc thính xuyên lâm đả vũ thanh,
Hà phương ngâm khiếu thả đồ hành.
Trúc trượng mang hài khinh thắng mã,
thùy phạ?
Nhất thoa yên vũ nhậm bình sanh.
Liệu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh,
vi lãnh,
Sơn đầu tà chiếu khước tương nghinh.
Hồi thử hướng lai tiêu sắt xứ,
quy khứ,
Dã vô phong vũ dã vô tình.
[4] Tuệ Sỹ. (2008). Tô Đông Pha – Những phương trời viễn mộng. NXB Văn hóa Sài Gòn, tr. 83
[5] Tạm dịch
NGUYÊN khởi tiếp nguồn Bụt,
CHỨNG lý hợp thiền cơ,
TUỆ đăng khêu nhật nguyệt,
SỸ khí nuốt trời xanh.
TUỆ NHẬT SỸ KHÍ
-Ai văn điếu niệm Giác linh Ôn-
Trời Phật Ân nhỏ lệ,
Đất Già Lam ngậm ngùi,
Thị Ngạn am bỗng chốc chơi vơi,
Bên án cũ trang kinh còn để dở!
Hỡi ôi,
Bậc thượng sỹ trăm năm hồ dễ,
Người tùy duyên gá mộng đến cõi này,
Những tưởng đâu thiền trượng chấn trăm năm,
Ai ngờ được cội tùng đà ngả xuống!
Thất thập cửu xuân thu,
Bốn mươi sáu giới lạp,
Cô phong khiêu TUỆ nhật,
SỸ khí nuốt trời xanh!
Kính nhớ Ôn xưa,
Đồng chơn nhập đạo,
Trí hiện tinh hoa,
Tuổi học tăng mà tiếng nức gần xa,
Thời niên thiếu đã dự hàng giáo thọ.
Bằng cấp không một mảnh, triết thuyết lại Đông – Tây tinh tỏ,
Trường lớp dẫu dăm ba, chữ nghĩa thảy Đất – Trời hội đủ.
Văn bày khúc chiết,
Chữ thích tường minh,
Dịch giáo điển phổ lợi quần sinh,
Viết luận giải chỉ bày hậu học.
Vậy nên,
Trượng thất tuy cô ảnh,
Đào lý mãn tam thiên.
Ơn Pháp hóa vô biên,
Trong ngoài đều quy ngưỡng.
Dẫu rằng,
Cơn nước lửa gặp phải khi thời thế,
Nên thế thời nước lửa vận từng cơn.
Đạo xuất trần, mà trần lại níu chân,
Bậc thượng sỹ phải dấn thân vào khổ hải.
Mười bảy năm lao lý,
Một bản án tử hình.
Vẹn nguyên tấm đạo tình,
Áo sờn gầy vóc hạc.
Tóc xanh hóa bạc,
Lý tưởng vẫn ngát hương thiền,
Chư Pháp tùy duyên,
Chấn tích lại độc hành thiên lý.
Khải bạch Giác linh Ôn,
Người đã một mình đến,
Lại cũng một mình đi,
Song đức DŨNG – TRÍ – BI,
Rạng ngời trang Phật sử.
Chí thành đảnh lễ,
Dập đầu cung tán xưng tôn,
Tán rằng:
源流從佛出,
證理契禪機。
慧燈挑日月,
士氣吞晴天。
NGUYÊN lưu tùng Phật xuất,
CHỨNG lý khế thiền ky.
TUỆ đăng khiêu nhật ngoạt,
SỸ khí thốn thanh thiên.
Củi đã tàn,
Lửa đã tắt,
Hỏi gì lửa củi về đâu!
Thầy đã đến,
Thầy đã đi,
Thầy thị hiện giữa chưa từng đi – đến.
Trăng đại ngàn quải ngọn cô phong,
Đường thiên lý độc hành độc bộ…
Ô hô,
Ai tai!
Phục duy thượng hưởng.
Nhất tâm đảnh lễ tự Lâm Tế Chánh tông tứ thập tứ thế, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Tăng Thống Viện Chánh Thư Ký Xử lý Thường Vụ, húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, hiệu TUỆ SỸ, Trưởng lão Hòa thượng Giác linh.
Dã Hạc Cư, 29.11.2023
(Hạ Ngươn ngày 17 giờ Thìn năm Quý Mão)
Hậu học Sơn Dã cung tiến Giác linh Ôn trong thời khắc thỉnh báo thân Ôn tác lễ trà tỳ.
CUNG VĂN BÁI BIỆT THẦY.
“Thầy là bậc xuất trần thượng sĩ, việc đến đi đâu có vướng bận gì. Thị hiện là chu toàn hạnh nguyện, thị tịch là Ta Bà hết duyên. Sớm nghĩ việc báo ơn thầy tổ, tuổi trăng tròn đã xuất hộ, chuyển pháp luân, vô úy thuyết biện tài. Lục độ hành thâm bát nhã khai, dựng tư tưởng thực thi vạn hạnh, góp phần không nhỏ, giải trừ pháp nạn, kề vai gánh vát phong trào Chấn Hưng Phật Giáo, âm thầm nhưng mãnh liệt, vượt ba đào đi đến chổ thống nhất các tông chi giáo hệ mà không phải quốc gia nào cũng làm được trong lịch sử truyền thừa Phật giáo trên hai ngàn năm trăm năm qua.
Thầy là một Hòa Thượng không có chùa, không có nhà, không có giường tòa, không có đệ tử riêng, nhưng học trò thì vô số kể, trong nước, ngoài nước trên khắp cả địa cầu. Thầy thông thạo nhiều ngoại ngữ đến chỗ uyên thâm, nhưng chưa từng qua trung tâm trường lớp nào, rõ xứng tầm là “vô sư trí vi tôn”.
Trong hậu bán thế kỷ XX, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát… là những bậc kỳ tài tuấn kiệt trong tư tưởng học thuật triết học, không dành riêng cho một tôn giáo nào, được bao người ngưỡng mộ, kính phục. Vì sao ? Vì phương trời viễn mộng là con đường vô sanh, là con đường “thiên lý độc hành.”
Nên những người đến đây hòa quyện với khói Lam chiều bay, từ những căn nhà bếp bé nhỏ, là đà trên ngọn cỏ hòa hiệp với màu hoàng y của tăng ni thượng sĩ luôn giữ gìn nếp sống lục hòa trong bản thệ Tăng già từ ngàn xưa.
Không ai là khách đến để xưng tán hay sớt chia mất mát thương đau, hay ngõ lời tiễn biệt, cũng không ai là chủ tang để có đáp từ mà tất cả chỉ nhìn nhau như trao cho nhau nguồn năng lượng tin yêu cuộc sống, để vượt qua phong ba để thành toàn sự nghiệp độ tha. Hãy cất tiếng hát ca nối được vòng tay lớn để dựng xây đất nước sơn hà.
Thầy ơi! Một khi nến trí tuệ đã thắp thì lông vảy sừng vuốt móng của chúng sanh rụng xuống
Đức Thế tôn thả thuyền từ tiếp độ, đưa tất cả đồng lên thuyền cập bến vô sanh thầy nha./.”
Thạnh Không
CÂU ĐỐI CÚNG DƯỜNG GIÁC LINH TUỆ SỸ THƯỢNG NHÂN – tác giả Thích Nguyên Hiền
– Tuyết lãnh hạc gầy, nhả hạt linh đơn, chữ nghĩa tam thiên dậy ba đào bốn biển.
– Hằng giang nguyệt ấn, khơi nguồn huyền thoại, kinh thư bát vạn nhoà cổ lục năm châu.
– Tuệ ngọc ngời soi, ngoan thạch châu tuần, trí đức bàng hoàng trời Kinh viện.
– Giới châu ánh hiện, mây ngàn hội tụ, biện tài chất ngất đất Già lam.
– Tổ quốc bốn mươi kỷ tâm linh, rót xuống trăm năm đấng tuệ tài kiệt xuất.
– Quê hương hai ngàn năm Phật giáo, vọng về thời đại bậc sĩ khí vô song.
– Hỏi gió Trường sơn, mặc khách về đâu, chỉ thấy trăng ngàn mơ huyễn thoại.
– Gọi triều Đông hải, cô thuyền ẩn tích, nào hay vết nhạn lẩn tầng không.
KÍNH DÂNG TUỆ SỸ THƯỢNG NHÂN
Cuộc lữ hề đi thôi
Vượt thác ghềnh hề chèo với trăng
Mang mang hề đất trời
Mơ Trường Sơn hề Thiên lý độc hành.
Thưa bậc Thiện tuệ!
Hỏi trang Thượng sỹ!
Người từ đâu đến
Người đi về đâu?
Hỏi gió Trường sơn, mặc khách về đâu, chỉ thấy rừng cây, đứng ngắm trăng ngàn mơ huyễn thoại
Gọi triều Đông hải, cô thuyền ẩn tích, mới hay con sóng, xóa nhòa vết nhạn giữa tầng không.
Gõ thất Duy-ma, thất chủ đã lên Hương Tích mượn bồ đoàn, tám vạn bốn ngàn tòa đãi khách
Vào hang Ca-diếp, Đầu đà đang ẩn Kê Túc đợi Từ thị, thiên bá ức linh tải chờ người.
Hỏi Trúc Đạo Sinh đá gật đầu cười
Đến Đường Lâm Tế sư rền giọng hét
Bụi chẳng thèm bay, bóng trúc quét
Nước không gợn sóng, ánh trăng soi
Tào Khê chảy mãi không lời
Linh sơn mây trắng ngàn đời du du.
Kính lạy Giác linh Tôn sư!
Con về lạy dưới chân Thầy
Nghe bao pháp nhũ đủ đầy trong tâm
Chùa xưa vọng tiếng chuông trầm
Cỏ cây mây nước cũng thầm dâng hương.
Nhớ Giác linh xưa!
Hương quán Quảng Bình
Xuất sanh Pakxé
Ấu niên vào chùa ngâm kinh xướng kệ
Bảy tuổi hồi hương học đạo hành Thiền.
Hải Đức Nha Trang quy tụ trí thức ba miền
Quảng Hương Già Lam thu hút anh tài khắp chốn.
Học đường Vạn Hạnh gửi tâm tư giữa trời Nam hỗn độn
Tạp chí Tư Tưởng dâng ý nguyện về Phật Việt thiêng liêng.
Viết sách, làm thơ, chơi nhạc tùy duyên
Khảo cứu, biên thư, dịch thuật mẫn cán.
Khóc vận mệnh bao phen khi quê hương lửa đạn
Buồn trí thức nửa mùa lúc tổ quốc lâm nguy
Giun dế cắn đứt cà non Người vì đời đổ lệ tàm ty
Bọ rùa nhắm tàn dãy bí Thầy phong kín nổi hờn ngoan thạch. (1)
Dấn thân ư? Oan ức không cần biện bạch
Tù đày ư? Khóa miệng cũng vẫn hành Thiền
Trở về sau bản án chung niên
Dựng lại cả một miền Tuệ giác.
Đem cái học Khổ, Không hỏi ngài Duy-ma-cật
Vận hùng tâm Thọ, Nguyện vấn hoàng hậu Thắng Man
A-tỳ-đạt-ma Câu-xá ngàn trang
Trường, Trung, Tạp, Tăng A-hàm bốn bộ.
Truyền thống tổ tiên đang dần vào tuyệt lộ
Đại lao cổ đức làm Bỉnh pháp Tỳ-kheo
Cô thân giữ vững tay chèo
Tử sinh bóng hạc bọt bèo trường không.
Kính lạy Giác linh Tôn sư!
Tổ quốc bốn mươi kỷ tâm linh, rót xuống trăm năm đấng Tuệ tài kiệt xuất
Quê hương hai ngàn năm Phật giáo, vọng về thời đại bậc Sỹ khí vô song.
Tuệ ngọc ngời soi, ngoan thạch châu tuần, trí đức bàng hoàng trời kinh viện
Giới châu ánh hiện, mây ngàn hội tụ, biện tài chất ngất đất già-lam
Tuyết lãnh hạc gầy, chữ nghĩa tam thiên dậy ba đào bốn biển
Hằng giang nguyệt ấn, khơi nguồn huyền thoại, kinh thư bát vạn nhòa cổ lục năm châu.
Giấc Mơ Trường Sơn gọi gió biển về đâu
Ngục Trung Mỵ Ngữ (2) gieo u sầu nhân thế
Độc đối thành tùng kể lể
Đạp trước hồng lô ngủ vùi (3)
Thỏng tay vào chợ rong chơi
Dời trang Kinh Phật vào đời mông lung.
Thầy ơi!
Với các bậc kỳ tài, Thầy trọng thị, khiêm cung
Cùng những kẻ hậu lai, Thầy từ ái, nâng đỡ
Chưa thấy Thầy chê bai ai dù chuyện hay chuyện dở
Chẳng thấy Thầy khuất phục ai dù bạo thế cường quyền
Pañca- sīla Người rất mực trinh tuyền
Pātimokkha Thầy tinh chuyên trì niệm.
Than ôi! Lô hỏa thuần thanh chừ tắt lịm
Hỡi ôi! Chiên đàn hải ngạn chừ thanh lương
Huyết thống tâm linh tìm đâu chỗ tựa nương
Sự nghiệp thánh điển còn ai người chèo lái
Thất chúng về vọng bái
Người thanh thản ra đi
Trên linh đài Người mỉm mật huyền vi
Dưới kim quan chúng thầm thì huyết lệ
Xao xác tiếng gà bên trời Tây kể lể
Bơ vơ điệu thở giữa hồn Việt ngậm ngùi
Kính dâng vài chữ bồi hồi
Trường Sơn viễn mộng xa rồi Thầy ơi!
Thùy Ngữ Thất, Mạnh Đông năm Quý Mão.
Đệ tử Thích Nguyên Hiền kính lễ.
Chú thích:
(1) Hai câu này lấy ý từ bài thơ TA BIẾT trong Giấc Mơ Trường Sơn.
(2) Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục Trung Mỵ Ngữ là tên hai tập thơ chữ Việt và chữ Hán của Tuệ Sỹ.
(3) Độc đối thanh tùng và Hồng lô thụy bãi là những ý trong các bài thơ của Ngục Trung Mỵ Ngữ.
BBT. Chùa Tự Tâm tổng hợp
Thảo luận về post